Sống Tối Giản
Có lần, tôi và vài người bạn bị lạc nhiều ngày trong rừng mà không còn thức ăn. Ra khỏi rừng, được người qua đường tốt bụng biếu cho một quả táo thì mừng muốn rớt nước mắt. Bốn anh em chia nhau cắn một quả táo trong sự cẩn trọng và thưởng thức như chưa bao giờ được ăn táo. Đến nỗi, chúng tôi ăn luôn cả hạt táo. Chúng tôi đã quả quyết rằng, trên đời này chưa có quả táo nào ngon như quả táo đó cả.
Ông bà ta thường nói “Một miếng khi đói bằng một gói khi no”. Khi đói mà có được một miếng thức ăn thì nó trở nên quý vô cùng, ta có thể cảm nhận được hạnh phúc trong khi thưởng thức miếng thức ăn ít ỏi đó. Nhưng khi chưa đói hoặc đã no rồi, mà có thêm một miếng thức ăn sẽ chẳng có ý nghĩa gì. Thêm hai miếng, ba miếng nữa cũng vậy. Có thể phải thêm tới một gói, một mâm cao lương mỹ vị, may ra mới thấy quý. Tuy nhiên, cái quý này là vì tham lam, hoàn toàn khác với cái quý trước là vì đói và được ăn - nhu cầu cơ bản để sinh tồn.
Có lẽ người xưa đã biết rõ bản tính khá kỳ lạ này của con người, rằng hễ có nhiều thì sẽ mau chóng bão hoà, khinh lờn, rồi nhàm chán, nên ông bà ta chủ trương sống không cho đủ đầy - tri túc. Mặc dù có thêm cũng mang lại cảm giác thích thú, an tâm, nhưng nó làm mất đi cảm giác trân quý và thưởng thức trọn vẹn khi tiếp xúc từng món đồ. Thật vậy, thời đó ai cũng nhớ rất rõ mình có bao nhiêu bộ quần áo. Chiếc áo nào vá chỗ nào, vì sao bị rách chỗ đó, đều nhớ rõ mồn một. Thậm chí nhớ luôn mình có bao nhiêu cuốn sách, và cuốn sách đó mình đã mua trong dịp nào, ở đâu, nội dung ra sao, và có những trang đọc đi đọc lại muốn nát nhàu. Hạnh phúc, có lẽ, chỉ xuất hiện khi ta biết nâng niu và muốn giữ gìn một món đồ hay đối tượng nào đó. Và ý thức rằng nó có thể biến mất hay tàn phai bất cứ lúc nào.
Như vậy, điều kiện cơ bản của hạnh phúc là phải thấy được giá trị của những gì mà mình đang sử dụng hay tiếp xúc. Mà, để thấy được giá trị của chúng thì ta phải có mặt một cách đích thực và trọn vẹn, tức là phải có sự tập trung. Mà, để có được sự chú ý hay tập trung trọn vẹn vào một đối tượng hay món đồ nào đó, điều kiện bắt buộc là chúng phải ít. Có lẽ các nước như Nhật Bản, Bhutan, hay một số nước Bắc Âu như Phần Lan, Đan Mạch, Thuỵ Điển... đã ngộ ra chân lý này từ xa xưa nên họ chọn nếp sống tối giản mà không bao giờ thay đổi.
Tôi từng vác ba lô đi bộ suốt ba năm, qua 25 tiểu bang của nước Mỹ, không mang tiền và điện thoại. Tài sản hiện tại của tôi: Ba bộ y phục chính, ba bộ đồ lao động, hai bộ đồ thể thao, vài bộ đồ và dụng cụ “đi phượt”; một xe đạp, một laptop, một điện thoại Nokia, hai kệ sách, hai bộ tách trà. Tôi không có tài khoản ngân hàng riêng, không có trang cá nhân trên mạng xã hội, không xài các ứng dụng.
Bây giờ rõ mặt đôi ta. Biết đây rồi nữa chẳng là chiêm bao (Truyện Kiều - Nguyễn Du). Nếu biết lần chia tay này rồi lâu lắm mới gặp lại, hoặc không biết đến bao giờ mới gặp lại, thì chắc chắn ta sẽ trân quý từng giây phút ngắn ngủi đó. Ta sẽ không để lãng phí thời gian cho những việc không cần thiết, để chỉ tập trung vào câu chuyện giữa mình và người ấy, chỉ tập trung vào nhau, chỉ nhìn vào mặt nhau. Ta muốn biến những khoảnh khắc còn may mắn có nhau trở thành những khoảnh khắc đặc biệt, vừa để trân quý vừa để lưu vào ký ức của nhau những gì hay ho và đẹp đẽ nhất. Cái ý thức “sợ mất đi” sẽ giúp ta buông bỏ cái tôi của mình xuống để hoàn toàn kết nối với trái tim cũng không còn cái tôi của người kia. Giây phút đó còn có thể buông bỏ hết những giận hờn, oán trách nhau, nếu cả hai đẩy nhận thức của mình tới mức: Hãy nhìn vào mặt người lần cuối trong đời (Hãy yêu nhau đi - Trịnh Công Sơn).
Ta thường chỉ thể hiện được “cái tốt đẹp nhất” của mình khi ta có một động cơ hay tác nhân mạnh mẽ nào đó. Mà, động cơ để quyết tâm sống với những khoảnh khắc hay ho nhất thường đến từ một cái thấy sâu sắc hay phút giây phản tỉnh. Tuy nhiên, con người hiếm khi đạt được khả năng này. Phần lớn là phải chờ đến khi có chuyện gì xảy ra, có tác nhân là hoàn cảnh thay đổi, người kia không còn có mặt bên ta nữa, thì ta mới giật mình nhận ra mình đã mất đi một thứ gì đó rất quý giá. Mất mới quý là một trong những “thói xấu” nhất của con người. Nhưng nghịch lý là con người lại luôn cố gắng nắm bắt cho thật nhiều, yêu thích thứ gì là lao vào đam mê cuồng nhiệt. Kết quả là mau nhàm chán và bỏ nhau.
Đáng lẽ, một khi đã ý thức được “thói xấu” hễ đủ đầy hay dư thừa là mau chóng khinh lờn, nhàm chán, thì ta sẽ cố gắng giới hạn sự chung chạ, tiếp xúc nhau quá lâu. Trên thực tế thì không ai có thể sống với phút giây đẹp nhất của mình liên tục cả, trừ những bậc tu luyện tới mức làm chủ được tâm ý mình. Phút giây nào cũng là thần thánh hết thì lại càng không thể. Nên dù là quan hệ thân thiết như vợ chồng, cha mẹ và con cái, rất yêu thương nhau thì cũng cần nên giới hạn tương tác nhau. Thời gian tách ra là để bên kia hồi phục năng lượng, để quay về khơi dậy năng lượng lành và chuyển hóa năng lượng không lành, để khi xuất hiện trở lại thì họ vẫn là một đóa hoa. Ngoài ra, thời gian tách ra là cũng để giúp cho đôi bên ý thức trở lại sự cần thiết và quý giá của nhau, để khi gặp lại nhau thì mỗi giây phút sẽ trở nên đặc biệt.
Vì không thể liên tục đặc biệt, nên ta chọn một khoảng thời gian cố định để biến nó trở thành đặc biệt. Mà thật ra lúc nào cũng đặc biệt hết thì nó sẽ không còn là đặc biệt nữa. Đó là bí quyết để giữ gìn một liên hệ tình cảm, mà cũng là bí quyết của sự sống. Kể cả khi buộc phải sống chung với nhau liên tục, như thời gian giãn cách xã hội trong trận đại dịch, thì ta vẫn có cách để hạn chế sự tương tác không cần thiết với nhau. Chỉ cần nhìn nhau và mỉm cười là đủ. Dành năng lượng tốt nhất để khi gặp nhau là chỉ tặng nhau toàn là hoa, chứ không có rác.
Tiếc thay, con người đã dần quên bí quyết sống này, cả đời cứ lao theo những ham muốn vô độ của mình. Bỏ hình, bắt bóng. Những gì đang có, rất thật, thì không chịu tận hưởng, mà lại tất tả đi tìm những thứ chưa có hoặc sẽ không bao giờ có. Mà, sở dĩ con người cứ sống ngược đời như vậy là vì con người đã để cho phần “con” dẫn dắt phần “người”, nỗi sợ và tham lam đã chiến thắng bình yên và sáng suốt. Do đó, có hai cách để giúp con người thay đổi lại thái độ sống của mình. Một là, tập trung toàn lực để luyện tập làm sao cho phần “người” làm chủ được phần “con”. Hai là, chọn một lối sống an toàn và có nhiều cơ hội để hạnh phúc hơn, đó chính là lối sống tối giản – “quý hồ tinh bất quý hồ đa”.
Ít mới quý. Ít, là để mỗi giây phút trở nên đặc biệt.
Sư Minh Niệm
Tư Tưởng Trung Đạo Qua Bát Bất
Mở đầu Trung luận, Bồ-tát Long Thọ đã sử dụng Bát bất duyên khởi để hệ thống hóa tư tưởng Tánh không trong kinh Bát-nhã. Từ cơ sở này, ngài phân tích làm sáng tỏ hệ thống triết học của mình1.
Mục tiêu của luận thuyết này là “phá tà hiển chánh”, do đó, những nỗ lực của Trung luận là nhằm phê bình các quan điểm sai lầm của ngoại đạo và ngay cả một số bộ phái Phật giáo như Độc Tử bộ, Hóa Địa bộ và Hữu bộ. Ở bài viết này, tác giả xin trình bày một vài điểm về Bát bất trong Trung luận.
Bất Sanh Bất Diệt
Khi Bồ-tát Long Thọ nói “bất sanh bất diệt” thì hẳn nhiên trước đó phải có cái gì đó có sanh và diệt. Trung luận đã đề cập như sau:
Có người hỏi, vì sao tạo luận này. Đáp: “Có người cho rằng vạn vật từ đại tự tại thiên sanh, có người nói từ (vĩ nữu) thiên sanh, có người nói từ hòa hợp sanh, từng thời sanh, nói từ thể tánh sanh, nói từ tự nhiên sanh, hay nói từ vi trần sanh….”2. Như vậy Bồ-tát Long Thọ đưa ra “bất sanh bất diệt” là để phá những kiến chấp trên. Trong Trung luận, Long Thọ cho rằng:
“Các Pháp không tự sanh
Không từ cái khác sanh
Từ cả hai không nhân
Do vậy biết không sanh”3.
Theo pháp Duyên khởi thì các pháp không có tự tánh. Tại vì không có tự tánh nên tha tánh cũng không. Vì nhân tự tánh mới có tha tánh, nên nếu tự tánh không có thì tha tánh cũng không có.
Khái niệm này ta cũng có thể tìm thấy nơi kinh tạng Pāli. Kinh Mật hoàn nói: “Chư Hiền, do nhân lỗ tai và các tiếng, nhĩ thức khởi lên, do nhân lỗ mũi và các hương, tỷ thức khởi lên, do nhân lưỡi và các vị, thiệt thức khởi lê, do nhân thân và xúc, thân thức khởi lên, do nhân ý và các pháp, ý thức khởi lên. Sự gặp gỡ của ba pháp này là xúc. Do duyên xúc nên có các cảm thọ. Những gì có cảm thọ thời có tưởng, những gì có tưởng thời có suy tầm, những gì có suy tầm thời có hý luận”4. Theo đoạn kinh này, vì có sự tiếp xúc giữa mắt và sắc mà nhãn thức sanh. Như vậy, khi một pháp sinh khởi cần phải có đủ các duyên khác. Nếu như các pháp không cần duyên, thì con mắt phải sanh con mắt, sắc phải sanh sắc, nhưng ở đây kinh nói “duyên mắt với sắc phát sanh ra nhãn thức”.
Theo Bồ-tát Long Thọ:
“Nếu quả từ duyên sanh
Duyên ấy không tự tánh
Từ không tự tánh sanh
Sao lại nói duyên sanh”
Hay
“Quả chẳng từ duyên sanh
Chẳng từ phi duyên sanh
Quả ấy vốn không sanh
Duyên phi duyên cũng không”5.
Ở đây Bồ-tát Long Thọ muốn bác bỏ cái nhìn của hàng phàm phu, cho là nhân sinh ra quả, hoặc quả sinh ra nhân. Nói quả sinh ra từ nhân, nhưng nhân lại không có tự tánh. Nếu nhân không có tự tánh thì nhân ấy sẽ bị thay đổi. Từ nhân thành cây, cây lại ra quả, quả lại có nhân, liên tục thay đổi. Thế thì quả sinh ra gì? Nếu nói quả sinh, thì quả phải sinh ra quả, chứ sao lại sinh ra cây, rồi từ cây mới có quả. Cả một chiều dài từ nhân đến quả, rồi quả về với nhân, là một vòng sinh và diệt liên tục, không có trạng thái nhất định của sanh và diệt.
Bởi vì “Các pháp không tự tánh, không có tướng thật có, nên việc nói thực tướng, thì tướng thực như vậy chẳng đúng”6. Do đó Bồ-tát Long Thọ nói là bất sanh. Các pháp không có tự tánh, không có tự tánh thì không có tướng chân thật, nên nói có thật tướng là không đúng. Vì cái gọi là sanh diệt đó chỉ là một hiện tượng theo thấy biết của chúng ta. Nhìn trên mặt hiện tượng của pháp, ta thấy có con người hiện hữu ở đời, sống một thời gian trên cõi đời, để rồi một ngày nào đó phải ra đi, và khi chết đi gọi là mất. Nhưng theo Trung luận, ta thấy không có gì diệt mất, vì tất cả các pháp vốn là không:
“Chưa từng có một pháp
Không từ nhân duyên sanh
Thế nên tất cả pháp
Không gì chẳng phải không”7.
Vì các pháp là duyên sinh, nên mọi hiện tượng giống như trong giấc mộng, ảo ảnh phù du, dường như có nhưng thật là không có, như ảnh chiếu qua gương8. Đó là giáo lý duyên khởi của Đức Phật, được Bồ-tát Long Thọ triển khai nhằm mục đích đả phá những kiến chấp sai lầm vào thời của ngài.
Bất Thường Bất Đoạn
Vì sao Bồ-tát Long Thọ nói Bất thường bất đoạn? Vấn đề này liên quan đến quan điểm chấp thường và chấp đoạn mà trong các kinh đã đề câp. Trong kinh Phạm võng ta thấy: “Người ấy nói: Bản ngã và thế giới là thường trú, bất sanh, vững chắc như đảnh núi, như trụ đá, còn những loại hữu tình kia thì lưu chuyển luân hồi, chết đi sanh lại, tuy vậy, chúng vẫn thường trú”9. Và trong kinh Tệ Tú có nói: “Bà-la-môn Tệ Tú là người có tà kiến, chủ trương thuyết hư vô ông cho rằng: Không có thế giới khác. Không có loài hóa sanh. Không có quả báo của tội phước”. Đây là một trong những dị kiến thuộc trường phái chấp đoạn, chủ trương thuyết đoạn10.
Hai đoạn kinh vừa dẫn là những kiến chấp của ngoại đạo được nêu ra vào thời Đức Phật nhưng Đức Phật đã không trả lời. Tuy nhiên với Bồ-tát Long Thọ thì ngài cho rằng “chẳng thường, chẳng đoạn”. Như vậy Long Thọ phủ nhận cả hai11. Ở đây người viết xin dẫn lại lời giảng giải của HT.Thích Thanh Từ để làm sáng tỏ vấn đề này.
* Hỏi: Nếu chẳng diệt thì nên thường?
- Đáp: Chẳng thường vì cớ sao? Vì thế gian mắt thấy vạn vật chẳng thường, như khi mầm lúa nảy sanh thì hạt giống bị biến hoại, thế nên chẳng thường. Vậy thì mất cái gì hạt lúa ư hay là mất mầm lúa, nếu như không có hạt lúa thì mầm lúa có sanh không?12Nếu như nói thường thì hạt lúa phải thường còn mãi, chứ sao lại thành mầm lúa, nếu hạt lúa đã thành mầm lúa, thì đã có sự thay đổi thì sao gọi là thường.
* Hỏi: Nếu không thường thì đoạn?
- Đáp: Không đoạn. Vì sao? Vì thế gian mắt thấy vạn vật không đoạn như hạt lúc nảy mầm từ cây lúa, thế nên không đoạn, nếu đoạn thì không có sự tương tục13.
Theo kinh Mi Tiên vấn đáp thì: “Thời gian thường trải qua ba thì: quá khứ, hiện tại, vị lai. Quá khứ thì vô thỉ (không có khởi đầu) vị lai thì vô chung (không có chấm dứt), nên nói quá khứ, vị lai đều vô cùng, vô tận, còn hiện tại thì chỉ là cái chớp mắt thoáng trôi, đại vương nên có ý niệm về thời gian như vậy. - Cả ba thì quá khứ, hiện tại, vị lai tức là thời gian, và thời gian này luôn luôn hiện hữu và chi phối tất cả hữu tình có phải vậy không thưa Đại đức? - Có khi có, có khi không tâu Đại vương”14. Ở đây ngài Mi Tiên muốn nói rằng quá khứ, vị lai thì không có điểm khởi đầu cũng không có điểm kết thúc, hiện tại thì thoáng trôi qua. Bởi vì thời gian không có điểm khởi đầu và không có điểm kết thúc, nên kinh Mi Tiên vấn đáp lại nói: “Thời gian tối sơ của một chúng sanh chẳng thể tìm được tâu Đại vương. Vì sao? Ví dụ trứng gà ấp nở ra con”15. Mọi pháp đều như thế, không có điểm khởi đầu cũng không có điểm kết thúc, như bánh xe luân hồi không có điểm dừng, xoay vần mãi không ngừng nghỉ. Và cũng do vậy mà Trung luận nói: “Từ hạt giống có tương tục, từ tương tục mà có quả, trước hạt giống sau có quả, không đoạn cũng không thường”. Hay: “Từ khởi tâm ban đầu, tâm tâm tương tục sanh, từ đó có kết quả, thời không có tương tục”16.
Bất nhất bất dị
Và thời kỳ Phật giáo bộ phái, Độc Tử bộ là bộ phái chủ trương có thần ngã, có ngã thực hữu. Ngã ấy “phi tức phi ly ngũ uẩn”; và họ lấy ví dụ củi và lửa để minh họa. Củi và lửa không phải một, không phải khác, hai thứ nương vào nhau mà có và thật có17. Bồ-tát Long Thọ đã phản bác luận điểm trên:
“Nếu lửa có thể đốt
Vậy tác nhân và tác giả nên là một
Nếu đốt khác cái bị đốt
Vậy lìa khỏi cái bị đốt
vẫn có cái đốt”18.
Tuy nhiên:
“Lửa không tùy nhiên liệu
Cũng chẳng phải không tùy
Nhiên liệu không tùy lửa
Cũng chẳng phải không tùy”19.
Ở đây người viết xin dẫn lại lời giảng giải của Hòa thượng Thích Thanh Từ để làm sáng tỏ quan điểm “bất nhất bất dị” mà ngài Long Thọ đưa ra.
* Hỏi: Nếu như vậy vạn vật là một?
- Đáp: Chẳng phải một, vì sao? Mắt thế gian thấy vạn vật chẳng phải một, như hạt lúa không là mầm, mầm không là hạt lúa, nếu như hạt lúa là mầm, mầm là hạt lúa là một, mà thật không phải vậy nên chẳng là một.
* Lại hỏi: Nếu không là một thì là khác?
- Đáp: Chẳng khác, vì thế gian mắt thấy vạn vật chẳng phải khác, nếu khác thì làm sao phân biệt hạt lúa, mầm lúa, cây lúa, mà không nói mầm cây, cọng cây, là cây, thế nên không khác20…
Bất Lai Bất Xuất
Đến và đi là một trạng thái vận động từ nơi này đến nơi khác, hay từ nơi khác đến nơi này. Khứ lai không phải chỉ dành riêng cho con người, mà tất cả vạn vật đều nằm trong sự vận động đến và đi. Như nước chảy, mây bay, tan tụ theo sự chuyển dịch của chúng cũng gọi là khứ lai21. Nhưng ở đây Trung luận cho rằng không có đến và không có đi.
Theo các nhà Hữu bộ, các pháp thật có trong ba thời quá khứ, hiện tại và vị lai, tức là họ chấp các pháp có tự tánh chân thực. Nhưng Long Thọ đã bác bỏ quan điểm của các nhà Hữu bộ, nói rằng: “Đã đi không có đi, chưa đi cũng không đi, lìa đã đi chưa đi, lúc đi cũng không đi”22. Nếu nói đã đi thì chúng ta đã đi rồi, còn nếu nói lìa người đi thì làm sao có động tác đi, chưa đi thì không có người đi, vì chưa có động tác đi, còn khi nói đang đi thì hành động đi hay người đi, hay nửa đi nửa dừng lại, thì nó chưa có rời khỏi đã đi và chưa đi. Từ đó Long Thọ cho rằng đang đi cũng không phải đi: “Không đi cũng không phải chưa đi, lúc đi cũng không đi, tất cả không có pháp đi, vì cớ chi phân biệt”23. Lại nữa: “Nếu quyết định thật có người đi, người ấy không thể sử dụng ba thời đi, nếu không quyết định thật có người đi, thì người đi cũng không sử dụng ba thời đi”. Hay, “Động tác đi quyết định có hay không có, người đi cũng không thể sử dụng ba thời đi, thế nên đi, người đi và chỗ đến đều không có”24.
Qua hai kệ ta thấy, nếu quyết đinh có người đi, thì phải có động tác đi. Động tác đi ấy chia làm ba thời, chưa đi, đã đi, đang đi. Người ta không thể sử dụng ba thời đi, vì chưa đi thì không đi, đã đi rồi thì không còn đi nữa, còn đang đi thì phải có người đi và động tác đi, nếu lìa động tác đi và người đi thì pháp không lập được. Cho nên Bồ-tát Long Thọ nói chẳng đến cũng chẳng đi. Sở dĩ chúng ta thấy có đến, có đi là chúng ta thấy trên phương diện hiện tượng; dựa vào thời gian và không gian mà các pháp có sự vận hành đến đi, nếu không có thời gian và không gian thì đến đi không thể thành lập.
Thích nữ Vạn Duyên
_____________
(1) Sa Sa Ki Kyō Go, Taka Sako Jiki Dou, I No Kuchi Tai Jun, Tsuka Moto Kei Dhō - Thích Đạt Hòa (Hán dịch), Thích Hạnh Bình, Phương Anh (Việt dịch), Khái Luận Lịch Sử Phật Giáo Ấn Độ, (2013), NXB. TP.Hồ Chí Minh, tr.113.
(2) Thích Thiện Siêu (dịch), Trung Luận(2001), NXB. TP.Hồ Chí Minh, tr.20.
(3) Thích Thanh Từ dịch-giảng, Trung Luận, (2008), NXB. Tôn Giáo, tr.49.
(4) Thích Minh Châu (dịch), Kinh Trung Bộ I, (2012), NXB. Tôn Giáo, Hà Nội, tr.151.
(5) Bồ-tát Long Thọ, Đỗ Đình Đồng dịch, Trung Luận và Hồi Tranh Luận (2014), NXB. Hồng Đức, tr.32.
(6) Ấn Thuận, Thích Tâm Trí dịch, Luận Trung Quán, (2016), NXB. Hồng Đức, tr.87.
(7) Ấn Thuận, Thích Hạnh Bình - Quán Như dịch, Lược Giảng Trung Quán Luận, (2010), NXB. Phương Đông, tr.118.
(8) Trịnh Xuân Thuận, Hồ Hữu Hưng dịch, Cuộc Đối Thoại Khoa Học và Phật Giáo, (2010), NXB.Phương Đông, tr.14.
(9) Thích Minh Châu dịch, Kinh Trường Bộ I, (1991), Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam ấn hành. TP. Hồ Chí Minh, tr.32.
(10) Thích Nguyên Hùng, Tổng Quan Bốn Bộ A-hàm, (2014), Toát yếu kinh Trường A-hàm. NXB. Hồng Đức - Hà Nội, tr.40.
(11) Ấn Thuận, Thích Nguyên Chơn dịch, Diệu Nghĩa Duyên Khởi Tánh Không, (2017), NXB. Hồng Đức, tr.120.
(12 Thích Thanh Từ giảng dịch, Trung Luận(2008), NXB. Tôn Giáo, tr.44.
(13) Thích Thanh Từ giảng dịch, Trung Luận (2008), NXB.Tôn Giáo, tr.45.
(14) Thích Giới Nghiêm dịch, Kinh Mi Tiên Vấn Đáp, (2003), NXB. Tôn Giáo, tr.162.
(15) Ví dụ trứng gà ấp nở ra gà. Gà con thành gà mẹ, lại đẻ trứng, ấp nở ra bầy gà con. Gà con lớn lên đẻ trứng, ấp nở ra gà nữa và cứ thế tiếp tục đến vô cùng vô tận. Đại vương có thể nào tìm ra gà sinh trứng hay trứng sinh gà? Có thể tìm ra nguồn gốc của con gà kia chăng? Kinh Mi Tiên Vấn Đáp, tr.166.
(16) Thích Thiện Siêu dịch và tóm tắt, Trung Luận, (2001), NXB.Tôn Giáo, tr.182.
(17) Linh Sơn Pháp Bảo Đại tạng kinh, tập 99, số 1588, Luận A-tỳ-đạt-ma-câu-xá, (phẩm Phá Ngã 29), tr.808.
(18) Ấn Thuận, Thích Tâm Trí dịch, Luận Trung Quán,(2016), NXB. Tôn Giáo, tr.234.
(19) Bồ-tát Long Thọ, Đỗ Đình Đồng dịch, Trung Luận và Hồi Tranh, (2015), NXB. Hồng Đức, tr.112.
(20) Thích Thanh Từ giảng dịch, Trung Luận, (2008), NXB. Tôn Giáo, tr.47.
(21) Ấn Thuận giảng, Thích Tâm Trí dịch, Luận Trung Quán, (2016), NXB. Hồng Đức, tr.92.
(22) Sđd, tr.96.
(23) Thích Thiện Siêu dịch và tóm tắt, Trung Luận,(2001), NXB. TP.Hồ Chí Minh, tr.34.
(24) Sđd, tr.39.
Kiềng Ba Chân
Tiếng khánh réo rắt ngân dài và lan toả trong không gian như những vòng sóng tròn, càng loang xa vòng tròn càng lớn, bao trùm cả đất trời. Âm thanh bay lên tận trời xanh, xuyên thấu vào lòng đất như mũi dùi chọc thủng cả địa ngụcA Tỳ. Bọn quỷ đói rùng rùng kéo về hướng phát ra tiếng khánh, chúng đông hơn quân Nguyên, hình thù quái dị, trông gớm ghiếc vô cùng. Cứ thường lệ mỗi buổi chiều, chúng ngóng đợi tiếng khánh để được ăn bữa chiều.
Chùa Tâm Tịnh rất nhỏ bé và đơn sơ, vốn là ngôi nhà cũ cải gia vi tự, chánh điện nhỏ, tôn trí pho tượng Thích Ca ở chính vị và sau lưng là bộ Tây Phương tam thánh. Vật có giá trị nhất có lẽ là quả đaị hồng chung, quả chuông to bự sư vừa mới đúc năm rồi, màu đồng còn sáng choang chưa lên màu thời gian. Tuy là chuông mới nhưng âm thanh laị có nội lực không khác những quả chuông vài trăm tuổi, tiếng chuông đã sớm trở thành một điều không thể thiếu của cư dân khắp các tổng quanh chùa.
Tiếng khánh vừa dứt thì bọn quỷ đói đã đầy sân, chúng ồn ào, nhốn nháo trông lộn xộn quá. Con qủy đầu đàn tên là Hoả Diện Bạch Trảo Nha gằn giọng:
- Chúng mày im lặng và trật tự, ăn uống chẳng mất phần! đứa nào quậy phá thì Hộ Pháp đập cho một chùy thì ba má chúng mày cũng nhận không ra.
Một con quỷ nữ bước laị gần nó, hình dong cũng rất dễ sợ không khác gì bọn quỷ kia cả nhưng nếu tinh ý thì sẽ thấy nó là một con quỷ đẹp nhất trong bọn, nét son sắc má đào của nó ẩn dưới lốt quỷ. Nó cất giọng ỏn ẻn:
- Đaị vương, em đói quá, em phải ăn trước!
Hoả Diện Bạch Trảo Nha gật đầu:
- Dĩ nhiên, em phải trên trước bọn chúng!
Những con quỷ đứng gần nghe thế bèn lùi ra xa hơn một tí, có đứa không hài lòng nhưng không dám ho he. Ni sưMinh Lý vẩy mấy muổng cháo, lập tức cháo biến hoá đầy cả hư không. Bầy quỷ ăn no nê, không cần phải tranh làm gì, thế mà chúng vẫn tranh. Con quỷ chúa phải canh chừng la hét kẻo không chúng làm loạn lên. Buổi thí thực xẩm tối chấm dứt, bọn quỷ ăn xong biến mất nhanh như lúc chúng kéo đến.
Tối cuối tuần, ni sư Minh Lý cùng những đệ tử và mấy Phật tử tại gia ngồi trì chú trong chánh điện. Tiếng trì chú rì rầm, tiếng mõ lốc cốc, thỉnh thoảng tiếng chuông boong vang lên, đánh thức sự hôn trầm của vài người, vực dậy cái âm bình bình và không khí trầm lắng. tiếng chuông như đập vỡ cái vỏ ảo giác vô minh trong phút giây hiện tại, laị như đoá hoa sen vượt lên khỏi đầm bùn mà nở hoa. Trong đám ngạ quỷ ấy, có vài đứa ăn cháo xong chẳng chịu đi, mà nán laị nghe chú, nghe kinh. Hoả Diện Bạch Trảo Nha và con quỷ cái kia thường ở laị cho xong khoá lễ đêm. Con nữ quỷ ấy tên Mỹ Diện Tế Yêu, nó thì thầm với qủy chúa:
- Mấy cô điệu nhỏ quá, sao laị đi tu chi cho cực?
Quỷ chúa trả lời rằng:
- Với những cô đã đủ tuổi trưởng thành thì đó là tâm nguyện của họ, còn những cô quá bé có thể là những đứa trẻ mồi côi do chùa nuôi, hoặc con nhà quá nghèo, nuôi hổng nổi nên đem lên gởi cho chùa.
Nữ quỷ laị hỏi:
- Vậy khi lớn lên, họ không muốn tu nữa mà muốn về nhà thì có được không?
- Dĩ nhiên! đạo Phật rất tự do, dân chủ. Ai cũng có thể tu và ai cũng có thể rời bỏ, đạo Phật không có trừng phạt hay nguyền rủa như những tôn giáo khác.
Mỹ Diện Tế Yêu laị hỏi:
- Vậy bọn người họ tu chi vậy?
- Để thoát kkhổ, để vượt qua sinh tử, còn nếu như thấp hơn thì để kiếp sau tái sanh vào một hoàn cảnh tốt đẹp hơn, thân tướng xinh đẹp hơn...
- Thế những người vốn giàu có, xinh đẹp, thông minh rồi thì còn tu để làm gì?
- Nếu kiếp hiện tại là thế nhưng chắc gì kiếp sau còn được như vậy, bởi thế mới tu để duy trì hoặc là thăng tiến hơn
- Bố thí để kiếp sau giàu có, học kinh để kiếp sau thông minh, tu tâm tu tướng để kiếp sau thân tướng xinh đẹp. Nhưng khi giàu sang xinh đẹp rồi thì sanh hưởng thụ, gây nghiệp xấu thế là laị đọa, há chẳng phải luẩn quẩn vô íchsao?
Quỷ chúa ngần ngừ chưa đáp thì lúc ấy có vị thiên vương hiệu là Đa Văn hiện thân tướng rực rỡ trước mặt chúng và nói rằng:
- Tu để để đời sau giàu sang, xinh đẹp, thông minh… là phương tiện mà nói, đấy không phải mục đích của nhà Phật. Việc dùng phương tiện để dẫn dụ cũng giống như bọc đường cho viên thuốc dễ uống. Con đường tu tập vất vả gian nan và dài lâu, không dễ gì đạt được thánh quả, nhất là trong đời mạt pháp này. Không đạt thánh quả thì sinh tử luân hồi vẫn còn, bởi vậy tu để đời sau tốt đẹp hơn cũng quan trọng lắm, giữ được thân người đã khó, được thân người mà đầy đủ phước báo thì còn khó hơn khó. Năm xưa Thế Tôn từng dạy:” Được thân người như đất dính ở móng tay, mất thân người như đất ở đaị địa”. Vì vậy tu phước tu huệ để đời sau có thân tướng xinh đẹp, thông minh, giàu sangcũng là quý lắm. Đời sau đủ phước báo laị tạo nghiệp thì đời kế tiếp bị đọa, nhà Phật gọi là tam thế oan. Đạo Phật là đạo xuất thế, không chủ trương mưu cầu phước báo nhân thiên mà mục đích chính là trí huệ để liễu sanh thoát tử.
Vị thiên vương dứt lời thì tiếng chuông hậu kết khoá lễ cũng vang lên. Vị thiên vương ấy cùng với quỷ chúa Hoả Diện Bạch Trảo Nha và nữ quỷ Mỹ Diện Tế Yêu đồng bái tạ Phật xong rồi biến mất. Ni sư Minh Lý xuống trai đường cùng các sư muội và mấy đệ tử taị gia ăn nhẹ bữa tối. Cô điệu Diệu Liên hỏi:
- Bạch sư cô, giới luật bảo ngày ăn một bữa mà chùa mình ngày ăn ba bữa, vậy có phải là phạm giới chăng?
Sư cô Minh Lý nhẹ nhàng cười:
- Giờ con ăn ngày một bữa chịu nổi không? tất nhiên là không rồi, giới luật là thế, nhưng vào sâu đời mạt pháp căn cơ con người càng xuống thấp, trí huệ kém, đạo hạnh yếu, đã thế những bậc tòng lâm thạch trụ bị đồng đạo cô lập, quyền lực thế tục bao vây phong toả… Bọn chúng mình chỉ là những kẻ giữ chùa mà thôi, không mong gì chứng đắcgiải thoát trong kiếp này. Duy có việc ráng tu để đời đời được gặp Phật pháp, gặp chánh pháp là có hy vọng lớn nhất. Tuy kiếp này không chứng đắc liễu sanh thoát tử nhưng chúng ta giữ gìn ngọn đèn chánh pháp, giữ gìn mạng mạch Phật pháp tại thế gian này. Chúng ta là gạch nối tiếp nhận từ lịch đaị tổ sư và truyền laị cho thế hệ sau. Việc duy trìPhật pháp ở thế gian không chỉ lợi ích cho người mà còn lợi ích cho chư thiên thần và vô số chúng sanh mà mắt mình không thấy được. Chúng ta tuy là phàm tăng, phàm ni nhưng vẫn là con Phật, là hạt giống Phật pháp ngày đêm thực hành sứ mạng Như Lai phó chúc.
Cô Phật tử Quảng Hương là một Phật tử siêng năng và thành tâm, luôn hộ trì chùa và những công việc lợi ích cho đạo cho đời. Cô tâm sự:
- Bạch ni sư, đời bây giờ có nhiều vị lạm dụng của cải tam bảo, tiền bạc của đàn na tín thí, mua đất, tích trữ tài sảnriêng, du hí khắp nơi, thậm chí làm những việc bại hoại xấu xa làm cho hàng Phật tử chúng con rất hoang mang, nhiều người bỏ chùa, xa rời đạo, mất niềm tin ở qúy thầy. Có nhiều vị lên ti vi công khai xu nịnh quyền thế, phát biểulinh tinh, thế tục hoá chuyện đạo…Nhiều Phật tử bất bình, dân chúng mỉa mai, các tín đồ đạo khác lợi dụng cơ hội bài bác đạo Phật.
Ni sư Minh Lý lắng nghe và im lặng hồi lâu
- Đúng thế, truyền thông và mạng xã hội đưa tin khá nhiều, đây là điều đáng tiếc! Ni tôi giữ Bát kỉnh pháp nên không thể nói gì, chỉ mong các Phật tử giữ gìn chánh tín, đừng để những việc sai trái của các vị ấy làm suy giảm đạo tâmcủa mình. Việc ai sai người ấy chịu, tuy nhiên chúng ta cũng dính lây vì cùng cộng nghiệp. Đạo Phật cũng như mọi pháp của thế gian, không thể tránh khỏi việc thăng trầm, không thể nằm ngoài quy luật thành- trụ- hoaị- không. Kiếp người ngắn ngủi, không kịp thấy được thời gian thịnh suy của đạo pháp, ni tôi mong mỏi các Phật tử giữ vững niềm tin vào chân lý mà Thế Tôn đã dạy, hãy tu học Phật pháp bằng lý trí, đừng dụng cảm tình, nhiều khi cúng dườngkhông đúng cũng là cái duyên tạo nghiệp xấu vậy! Đêm cũng khuya, các Phật tử về nghỉ, ni và các sư muội cũng cần nghỉ một tí để sáng sớm dậy công phu.
Quá nửa đêm, ni sư mơ màng thấy hai vị hộ pháp và thổ địa đến. Thổ địa thưa:
- Bạch ni sư, đất linh taị đức! thổ địa tôi coi ngạch đất đai, tất nhiên có cuộc đất của chùa Tâm Tịnh này. Tôi luôn hộ trì những nơi giữ gìn Phật pháp và những vị có giới đức, tinh tấn tu học . Cuộc đất ở đây tuy không vượng nhưng dưới sự hộ trì của thổ địa tôi thì không có một việc xấu nào có thể vào được phạm vi kiết giới của chùa. Có những nơi cuộc đất tốt nhưng vì người ở đấy giải đãi, phạm giới, mượn chuyện Phật làm việc ma thì tôi nhất định không ngó ngàng gì đến. Chùa Tâm Tịnh tuy nhỏ và tuổi đời chưa nhiều nhưng tôi hết sức hộ trì.
Thổ địa thưa gởi xong thì hộ pháp nói:
- Tôi vừa đến đây, chùa tuy nhỏ, Phật tử còn thưa thớt, cuộc đất không hẳn tốt nhưng đôi khi ấy laị là cái hay. Ni sưchắc cũng biết câu:” Duyên đời thịnh thì duyên đạo suy và ngược laị”. Hộ pháp tôi không câu nệ hình thức chùa to tượng lớn, không quan tâm đệ tử đông, cúng dường nhiều… hễ ai tinh tấn tu học, giữ gìn giới đức, không xu phụ quyền thế thì tôi tận tâm hộ vệ. Cứ mỗi chiều đến giờ thí thực, bọn quỷ đói kéo về rất đông, trong số ấy có không ích đứa phá phách và cũng có nhiều đứa mến mộ Phật pháp. Tôi nhiếp phục những kẻ ngỗ nghịch và hộ trì cho kẻ mộ đạo kia. Sư cô cũng đã cảm hoá không ít kẻ trong bọn chúng bởi đạo hạnh và giới đức. Người đời không biết, không thấy nhưng trời đất quỷ thần chẳng có lầm bao giờ.
Sáng hôm sau sư cô nhận được cuộc điện của bà chủ tịch cộng đồng trong thị trấn, bà ấy nài nỉ:
- Thưa ni sư, chúng tôi mời ni sư đến dự và cắt băng khánh thành cho buổi lễ:” Xúc tiến kinh doanh, thương maị và du lịch” tại thương xá Tân Thịnh Đạt. Trong buổi lễ này chúng tôi sẽ giới thiệu ni sư và gây quỹ cho chùa của ni sư
Ni sư Minh Lý từ tốn:
- Xin cảm ơn tình cảm của bà chủ tịch cộng đồng, tôi chúc cho buổi lễ thành công tốt đẹp và mọi việc thịnh đạt như cái tên của thương xá. Tôi không thể tham dự buổi lễ này và cũng xin đừng lạc quyên gì cho chùa Tâm Tịnh, mong bà chủ tịch thông cảm cho.
Bà chủ tịch cộng đồng vẫn nài nỉ mấy bận nữa và hỏi lý do tại sao thì ni sư bảo:
- Chùa Tâm Tịnh đủ vật thực để sống và tu nên không cần lạc quyên, người xuất gia không thể tham gia vào những việc của thế gian
Mấy cô điệu ngồi nghe ni sư Minh Lý từ chối, lòng đầy thắc mắc. Cô điệu Minh Phước hỏi:
- Bạch ni sư, người ta tạo cơ hội gây quỹ cho chùa, mình sẽ góp dần để xây laị chùa đúc tượng lớn, sẽ có nhiều người biết đến danh tiếng của chùa, các mối quan hệ xã hội sẽ rộng mở hơn… sao ni sư từ chối?
Ni sư Minh Lý nhớ lời của Thổ Địa:” Duyên đời thịnh thì duyên đạo suy” nên cười mỉn:
- Chùa mình đầy đủ vật thực để sống, tuy nhỏ và cũ nhưng không sao cả, xây chùa to tượng lớn thì cũng đẹp nhưng không quan trọng, quan trọng là ở chỗ tinh tấn tu học, hành trì giới luật. Có trí huệ mới có định, có trí huệ mới giải thoát. Mình đi tu là để buông bỏ chứ không phải tích luỹ . Ngày xưa Thế Tôn bỏ cả của cải, địa vị, danh vọng… mà thế gian này ước ao, nay mình đi cầu một tí danh lợi ấy để làm gì? vừa vô nghĩa vừa uổng cho đường tu của mình. Ni tôi đã thấy nhiều ngôi chùa sau khi xây to lớn xong thì bao nhiêu chuyện xảy ra: điều hành, chức danh, lo tiền chi trả, lo giao tế xã hội, việc thế gian xen vào chùa, hoạt động thế tục lấn át việc tu…và nguy hiểm hơn là những âm mưu chính trị hoá việc chùa. Duyên đời cực thịnh thì duyên đạo suy trầm trọng, thật tình mà nói thì chùa to tượng lớn chỉ thoã mãn thị hiếu khách du lịch, người vãn cảnh chứ chẳng có ích chi cho việc tịnh tu, tấn tu cả!
Mấy cô điệu lí nhí cảm ơn ni sư khai thị, ni sư laị nói:
- Chúng mình ở đây đủ vật thực để sống, đủ hương hoa để cúng dường , đi theo con đường Thế Tôn đã mở… vậy là có phước báo lớn lắm rồi. Các con giữ giới mình đã thọ, tất nhiên cũng phải theo nội quy của bổn tự, nếu các con cảm thấy không thõa mãn thì các con có thể tìm nơi thích hợp hơn với duyên mình. Ni sư không cấm cản các con, nghe thế cả bọn đứng dậy đảnh lễ ni sư và đồng thưa:
- Chúng con nguyện tu học và noi theo gương ni sư.
Ni sư dạy:
- Chúng mình là con nhà Phật, cách báo ân Phật chân thật nhất, hiệu quả nhất là giữ gìn giới đức, tinh tấn tu học, hiểu rõ nghĩa lý ý thú kinh điển và lời Phật dạy. Chúng mình phải sống sao cho xứng đáng với ba chữ: “ Chúng Trung Tôn”. Nhà Phật có câu:” Sa môn bất bái vương gia”, sa môn là người tu đạo không kể là nam hay nữ, không xu phụ quyền thế, không theo gian nhân ác đảng, không phò thế tục… tuy xuất gia nhưng sa môn cũng là con dân của một nước, chúng mình không thể mũ ni che tai làm ngơ trước thảm cảnh dân oan nước loạn. Người tu đạo ngoài tâm đaị bi còn phải có trí huệ và chút vô uý nữa. Có từ bi mà thiếu huệ và vô uý thì không làm được gì, có trí huệ mà thiếu từ bi và vô uý thì cũng như không, có vô úy mà không có trí huệ và từ bi thì việc sẽ sai vạy…Bởi vậy từ bi, trí huệ và vô úy như cái kiềng ba chân, hễ thiếư một là hỏng, phải có ba thì mới xứng là “ Chúng Trung Tôn”.
Các tiểu ni và tiểu điệu cảm thấy khoan khoái với lời dạy của ni sư, làn sóng giao thoa của những tâm hồn đồng điệulàm cho ai nấy mặt mày tươi tắn như hoa, rạng rỡ như toả quang và hoan hỷ.
Buổi sáng vườn chùa tươi mát trong lành, tiếng chim rít rít rộn ràng, hoa nở hương bay theo làn gió. Các tiểu ni và tiểu điệu vui vẻ đi làm phần công việc của mình.
TIỂU LỤC THẦN PHONG
Georgia, 052020
Giấc Mộng Kê Vàng
Câu chuyện “Giấc mộng kê vàng” hay còn gọi là “Hoàng lương nhất mộng” bắt nguồn từ truyện “Chẩm trung ký” của Trầm Ký Tế đời Đường.
Chuyện kể rằng, có một chàng thư sinh nghèo họ Lư. Một hôm, nhân chuyến đi chơi, anh vào nghỉ trong một quán trọ. Lúc chủ quán trọ bắc nấu một nồi kê vàng, thì chàng trai lên giường đi ngủ. Trong giấc ngủ, chàng trai mộng thấy mình lấy vợ và sinh con, sự nghiệp thuận buồm xuôi gió, tận hưởng vinh hoa phú quý, và cuộc sống sung sướng, thoải máiấy kéo dài cho đến lúc già chết. Nhưng khi tỉnh dậy, kê vàng vẫn còn chưa chín.
Sự gợi ý của câu chuyện này là: Đời người như giấc mộng, tất cả sang hèn, giàu nghèo, đều như mộng, như huyễn.
Ngụ ngôn này hoàn toàn phù hợp với tư tưởng “chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, duyên khởi tính không” của Phật giáo. Thế gian vạn vật đều không có bản chất bất biến vĩnh hằng, các pháp do nhân duyên mà sinh, duyên tan thì diệt, vạn phápđều là duyên khởi, tính không. Đấy là thực tướng và chân lý của vũ trụ, không còn gì để nghi ngờ, và cũng không có bất kỳ sức mạnh nào có thể thay đổi.
Đáng tiếc, rất nhiều người tham luyến phồn hoa thế gian, hoặc là chấp trước tự ngã, tự tư tự lợi, hoặc là thiếu trí tuệ nhìn thấu chân tướng vũ trụ, không muốn đối diện với chân lý duyên khởi, tính không, thà tin vào “hoa trong gương, trăng trong nước” - cảnh tượng huyền ảo trước mắt - bởi thế tham niệm bùng khởi, sinh lòng ganh đua, tranh đoạt, vì vậy mà sinh khởi những xung đột; tâm oán hận, khí hung hăng, làm cho xã hội mất đi sự hài hòa, ấm áp vốn có. Tham lam, thù hằn, ngu muội, sẽ biến xã hội văn minhthành xã hội bầy đàn nguyên thủy; lẽ ra có thể trở thành tịnh độ ở nhân gian thì nay biến thành địa ngụcở Ta-bà.
Thực vậy, nhìn từ quan điểm vĩnh hằng tuyệt đối, thì vạn pháp giai không, các pháp vô ngã; nhưng nhìn từ quan điểm tương đối thì vạn vật và ta xem ra lại đang tồn tại một cách chân thật, đấy chính là “chân không diệu hữu”. Chấp có, là chấp trước; chấp không, cũng là một loại của chấp trước. Đã không rơi vào trầm không trệ tịch, cũng chả mê vào giả tượng, không lạc vào hai biên giới ấy, mới là liễu ngộ triết lý Trung đạo của thực tướng.
Nhân sinh mặc dù như mộng, nỗ lực thực hiện một giấc mộng đẹp, vừa là lý tưởng, cũng là trách nhiệmvậy. Nắm chắc tấm thân và sinh mệnh khó được mà lại quý báu này, lấy giả tu chân, làm cho sinh mệnhngắn ngủi trở nên có ý nghĩa vĩnh cửu, lấy hoàn cảnh chật hẹp hữu hạn, triển hiện tầm nhìn rộng lớn vô hạn. Một giấc mộng kê vàng như thế cũng sẽ không giống với những giấc mộng bình thường khác, không hối hận chút nào.
Ý nghĩa và giá trị của sinh mệnh không ở chỗ bạn đã có được bao nhiêu, hưởng thụ được bao nhiêu; mà ở chỗ bạn đã từng sáng tạo được bao nhiêu, cho đi được bao nhiêu, bạn đã để lại cho thế giới này được bao nhiêu. Nhân vật đáng kính hoặc được đánh giá là vĩ đại từ cổ chí kim, từ trong đến ngoài nước, thậm chí những người bạn thân quanh ta, đấy đều chính là thước đo, tiêu chuẩn có thể cung cấpđánh giá.
Bạn muốn mọi người có những hoài niệm tốt đẹp về bạn không, bạn muốn mọi người nhớ về giọng nói và nụ cười dễ thương của bạn không? Hãy sống hòa đồng và thực tập theo tấm gương mẫu mực của những nhân vật vĩ đại trong lịch sử bạn nhé.
Trương Bồi Canh (Việt dịch: Phước Tâm)
(*) Trích dịch từ Chìa khóa trí tuệ (智慧的鑰匙) của Nhà văn Trương Bồi Canh, do Trung tâm Chí nghiệp Văn hóa Từ Tế xuất bản, năm 2003, tr.174-176.
Mười Điều Trọng Yếu Của Sự Tu Hành
1. Hiếu Dưỡng Cha Mẹ
Đức Phật dạy chúng ta lấy hiếu làm gốc. Hiếu dưỡng cha mẹ là pháp môn căn bản rất lớn của đạo Phật, cũng là điều kiện quan trọng cơ bản làm người. Chúng ta nghĩ thử ngay cả loài chim muông còn biết báo ân nuôi mớm. Nếu như chúng ta không hiếu dưỡng cha mẹ thì chẳng phải không bằng loài cầm thú hay sao?
Cha mẹ là ruộng phước lớn nhất đời này của chúng ta. Công đức hiếu dưỡng cha mẹ và công đức cúng dường Đức Phật như nhau, không hiếu dưỡng cha mẹ thì bị coi là sai lầm lớn nhất của đời người. Người bất hiếu một chút tư cách cũng không có nói gì đến học Phật.
Ngoài ra, chúng ta còn khuyên cha mẹ có Tín, Nguyện, niệm Phật, cầu sinh về Tây phương mãi mãi thoát khỏi nỗi khổ sinh tử luân hồi, mới là hiếu đạo cứu cánh viên mãn.
2. Làm Tròn Bổn Phận
Làm người ở thế gian, ai cũng có bổn phận và trách nhiệm của mình. Người học Phật trên cương vị công việc của mình phải nỗ lực tinh tấn làm gương mẫu cho gia đình, xã hội và quốc gia. Hiếu thuận với cha mẹ, giáo dục con cái, yêu thương gia đình, làm lợi ích cho xã hội, báo đáp tổ quốc mới đúng là người học Phật. Tự mình trốn tránh trách nhiệm, không làm tròn bổn phận, học Phật mà nói khoác lác đều là dối mình lừa người thì không thể thành tựu được.
3. Tin Sâu Nhân Quả
Cốt lõi của toàn bộ Phật pháp, chính là hai chữ “nhân quả”. Chúng ta trồng nhân thiện được quả thiện, trồng nhân ác nhất định chịu quả ác, báo ứng nhân quả không sai tí nào, không phải là không có báo ứng mà chỉ vì thời gian chưa đến. Người học Phật phải tin sâu nhân quả, lấy giới làm thầy, mỗi ngày tự kiểm điểm, luôn luôn sửa đổi. Ngoài ra, người niệm Phật tin sâu trồng nhân thiện niệm Phật, chắc chắn được quả thiện thành Phật. Đây là nhân quả rất thâm diệu.
4. Không Sát Sinh, Ăn Chay
Người học Phật không làm các việc ác, nỗ lực đoạn trừ tất cả hành vi tội ác. Trong tất cả tội ác, tội ác nặng nhất là sát sinh, ăn thịt. Bởi vì, mạng của chúng sinh rất quý báu, không nên vì thân mạng mình mà giết, ăn thịt nó thì nó vô cùngcăm hận, kết oán thù sâu nặng, đời sau nó sẽ giết lại chúng ta báo thù đòi nợ, máu trả nợ máu, quả ác rất là thảm khốc. Vì thế, chúng ta không làm các việc ác, không sát sinh, ăn chay là việc cần gấp.
5. Phóng Sinh Cứu Mạng
Người học Phật phải làm các điều thiện, bất cứ việc thiện nào, chỉ cần có cơ hội thì ra sức làm. Trong tất cả việc thiện, phóng sinh là đứng đầu. Bởi vì, phóng sinh là hành vi cứu mạng cấp bách, công đức rất lớn, chẳng phải việc thiện nhỏ có thể so sánh được. Thân mạng chúng sinh rất quý, chúng ta thả nó, cứu nó thì nó vô cùng cảm kích, kết thiện duyêntốt với nó thì đời sau chúng ta được quả báo thiện, phước đức không thể nghĩ bàn. Cho nên, trong các điều thiện lấy phóng sinh cứu mạng làm đầu.
6. Chí Tâm Thành Kính
Chí tâm thành kính là nền tảng thành tựu bất cứ sự nghiệp nào trong thiên hạ. Đại sư Ấn Quang chỉ dạy chúng ta phải dốc hết tâm lực, lấy hai chữ thành kính làm điểm quan trọng. Chúng ta có một phần thành kính thì có một phần công đức, có mười phần thành kính thì có mười phần công đức. Đây là bí quyết tuyệt vời học Phật thành công, mọi người tuyệt đối phải ghi nhớ kỹ trong lòng.
7. Phát Tâm Bồ Đề
Công đức nhiều hay ít của người học Phật theo tỉ lệ thuận với tâm lượng của mình, tâm lượng rộng lớn thì công đứcđược nhiều. Vì thế, người học Phật phải có tâm lượng rộng lớn, làm bất kỳ việc gì tuyệt đối không nên vì tự tư tự lợi, nhất định phải phát xuất từ tâm chân thành, chân thật vì lợi ích cho tất cả chúng sinh. Chúng ta trên cầu Phật đạo, phát tâm thành Phật; sau đó, có năng lực độ khắp chúng sinh. Chúng ta dưới thì hóa độ chúng sinh bằng cách phát tâm hễ gặp cơ duyên thì nhất định phải đem điều tinh yếu của Phật pháp truyền bá cho đại chúng. Ngoài ra, tâm phải chí thànhniệm Phật cầu sinh về thế giới Tây phương Cực Lạc; đó là chân chính phát tâm Bồ đề.
8. Lạy Phật Sám Hối
Chúng ta từ vô thủy kiếp đến nay tạo nhiều tội nghiệp, nếu có hình tướng thì khắp hư không cũng chẳng dung chứa hết; bởi vì, chúng ta là phàm phu xấu ác nghiệp chướng sâu nặng. Do đó, người học Phật phải phát tâm hổ thẹn và chí thành sám hối, siêng năng lạy Phật. Bởi vì lạy Phật một lạy chí thành thì tội diệt như số cát sông Hằng, lạy Phật sám hốilà bày tỏ tâm chí thành cung kính của chúng ta. Phương pháp tốt nhất là hổ thẹn tự xét lỗi mình.
9. Tín, Nguyện Và Niệm Phật
Pháp môn Tịnh độ là nương tựa Phật lực cứu giúp. Tín là tin thế giới Tây phương Cực Lạc có Phật A Di Đà. Nguyện là mong muốn mình mau sinh về thế giới Cực Lạc kia, chán lìa thế giới Ta bà này. Hạnh là phải chí thành niệm, giữ một câu thánh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật (hay A Di Đà Phật). Chỉ cần đầy đủ ba tư lương Tín, Nguyện, Hạnh thì sẽ nương theo đại thệ nguyện lực của Phật A Di Đà cứu giúp, ra khỏi sinh tử, vĩnh viễn đoạn trừ luân hồi. Đây là pháp môn vô cùng thâm diệu và tiện lợi nhất trong tất cả pháp môn mà Đức Phật đã dạy.
Nói theo lý, một câu A Di Đà Phật là nhờ Phật lực cứu vớt, chắc chắn bảo đảm vãng sanh về Tây phương. Nhưng vì sao ngày nay người niệm Phật nhiều mà người được vãng sanh lại ít? Đây là vấn đề rất quan trọng và nghiêm túc, ngày nay người niệm Phật nhưng không được vãng sanh quan trọng là do “thiếu Tín, Nguyện lại sợ chết, căn bản là không muốn vãng sanh”. Ngày nay, người niệm Phật chỉ cầu sống lâu, cầu mạnh khỏe bình an, cầu giàu sang, công việc thuận lợi, cầu tất cả lợi ích ở thế gian; nhưng không cầu vãng sanh về Tây phương.
Một chữ Chết thì có thể kiểm nghiệm người niệm Phật có đầy đủ Tín, Nguyện hay không? Hãy tự hỏi lòng mình, chúng ta có sợ chết không? Nếu như chết ngay lập tức thì Phật A Di Đà liền đón chúng ta vãng sanh về Tây phương, chúng tacó bằng lòng không? Một người niệm Phật thật sự là người chán lìa cõi Ta bà này, thích cầu về cõi Cực Lạc thì nhất định cho sự chết là như trở về. Bất cứ lúc nào, họ cũng mong sớm theo Phật A Di Đà về thế giới Tây phương Cực Lạcthì tuyệt đối không sợ chết, luôn mong muốn vãng sanh liền. Còn người niệm Phật giả tạo trong ngoài khác nhau, Tín, Nguyện không thật là người tham sống sợ chết, không muốn chết, không muốn vãng sanh, cầu sống lâu, có rất nhiều lý do ràng buộc. Chúng ta nên biết tâm người nào sợ chết, không muốn chết, không muốn cầu vãng sanh thì trái với tâm Phật A Di Đà, không đủ ba tư lương Tín, Nguyện, Hạnh thì làm sao họ thành tựu vãng sanh về Tây phương được?
Ngày nay, một nghìn người niệm Phật thì có chín trăm chín mươi chín người niệm Phật giả. Nếu người niệm Phật thật sự thì một chữ Chết thường ở trong tâm, tự mình luôn kiểm nghiệm, chỉ cần người niệm Phật không sợ chết, thích chết, bất cứ lúc nào cũng đón cái chết, luôn mong cầu sớm được vãng sanh về Cực Lạc; đây là người niệm Phật thật sự “chán lìa Ta bà, thích cầu Cực Lạc”. Như thế, một nghìn người niệm Phật, nghìn người vãng sanh; vạn người niệm Phật vạn người vãng sanh, không một người nào mà không sinh về Tây phương.
10. Nỗ Lực Thực Hành
Phật pháp quan trọng nhất là thực hành. Có bà cụ một chữ cũng không biết, hoàn toàn không hiểu kinh dạy, chỉ biết ăn chay, lạy Phật, chí thành niệm một câu Nam Mô A Di Đà Phật mà được vãng sanh. Bà học Phật thành tựu vãng sanh, hơn hẳn những nhà thông thái biện tài vô ngại, tinh thông tam tạng, quan trọng là có nỗ lực thực hành hay không. Người có tài năng, hiểu biết mà không thực hành, giống như điểm binh trên giấy, nói tên món ăn, đếm của báu cho người, đều là vô ích.
Nói tóm lại, chúng ta học Phật chỉ cầu chuyên nhất, sợ nhất là xen tạp; chỉ cần nắm chắc những điểm quan trọng rồi nỗ lực thực hành thì nhất định đạt được lợi ích chân thật của Phật pháp.
Trích: Cửa Vào Tịnh Tông của HT. Tịnh Không
Việt dịch: TN. Viên Thăng (Tu Viện Huệ Quang)
Vì Sao Chúng Ta Phải Tu?
Có quan điểm cho rằng, chết là hết và cũng có quan điểm cho rằng con người tồn tại mãi mãi từ kiếp sống này đến kiếp sống khác. Đây là kiến chấp nhị biên. Nếu chết là hết thì nhận thức con người rơi vào tà kiến cố chấp và bản thân con người sống bất chấp tất cả, mạnh ai nấy sống. Vì làm gì, ác hay thiện đều không có ý nghĩa sau khi chết. Quan điểm sai lầm này đưa con người đến những hành động tàn ác, tàn hại lẫn nhau, chiến tranh hận thụ và chết chóc triền miên. Đây gọi là thuyết đoạn diệt. Ngược lại nếu cho rằng linh hồn con người tồn tại mãi mãi đi không chấp dứt cũng là một quan điểm sai lầm. Gọi là chấp thường, hay thường kiến luận. Nếu chết là chấm dứt thì chúng ta tu để làm gì? Vì làm thiện, tu nhơn tích đức, bỏ ác làm lành, vun trồng cội phước cũng không có ý nghĩa. Và nếu cuộc sống tồn tại mãi mãi thì con người ỷ lại, chậm chạp, trì trệ. Đức Phật bác bỏ cả hai quan điểm này và giới thiệu con đường trung đạo thông qua giáo lý duyên khởi nhân quả luân hồi, nghiệp báo.
Con đường trung đạo do đức Phật khám phá tránh xa hai thái cực thường và đoạn. Con người và sự vật tất cả đều do duyên sinh. Do cái này có nên cái kia có, do cái này sinh nên cái kia sinh, do cái này diệt nên cái kia diệt. Theo đạo Phật con người sau khi chết tiếp tục đi đầu thai trong luân hồi sinh tử. Tùy theo nghiệp cảm, tức là tùy theo thiện nghiệp hay ác nghiệp mà mình đã tạo ra để đón nhận quả lành hay dữ trong đời kế tiếp. Sau khi trút bỏ hơi thở cuối cùng thân tứ đại tan rả, tâm thức thoát ra và đi đầu thai. Tâm thức ấy được gọi là “thức tái sanh”hay “tâm tái tục”, mang theo tổng thể nghiệp trong đó để thọ nhận một kết quả lành hay dữ tùy theo gieo nghiệp lành hay dữ. Nghiệp theo ta như bóng không rời hình. “Ta là kẻ thừa tự nghiệp, nghiệp là quyến thuộc là thai tạng từ đó con người tái sinh”.Như vậy, chết không phải là chấm dứt. Do đó, chúng ta cần phải tu sửa tam nghiệp của mình cho được thanh tịnh để được an lạc trong kiếp sống hiện tại và đón nhận quả báo an lạc về sau. Thành ra, học thuyết nhân quả, nghiệp báo trong nhà Phật giới thiệu để cảnh báo cho con người cẩn trọng với lời nói, hành động và suy nghĩ của mình. Tu hành tam nghiệp cho được thanh tịnh. Tu đơn giản là sửa, xấu sửa thành tốt, xấu sửa thành đẹp, ác sửa thành thiện…
Đức Phật dạy có hai cấp độ tu, đó là tu tại gia và tu xuất gia. Tu xuất gia là cát ái từ sở thân, xuất gia hoằng Phật đạo. Người xuất gia từ bỏ gia đình sống không gia đình, nguyện trọn đời tu học theo giáo lý của Phật để đạt an lạc giải thoát sinh tử luân hồi. Thêm nữa như trong văn cảnh sách ngài Quy Sơn dạy: “Bất năng an quốc trị bang, gia nghiệp đốn quyên kế tự, miến ly hương đẳng, thế phát bẩm sư, nội cần khắc niệm chi tâm, ngoại hoằng bất tránh chi đức, huýnh thoát trần thế, ký kỳ xuất gia”.Nghĩa là người tu xuất gia không tham gia vào việc lãnh đạo đất nước, không kế thừa gia nghiệp của cha mẹ để lại, xa rời quê hương, cạo bỏ râu tóc, tìm thầy học đạo, bên trong luôn chánh niệm tỉnh giác, nghiêm tầm kinh sách, bên ngoài tránh các việc dữ, xa rời cuộc đời, mông muốn xuất gia, hoằng dương Phật pháp.
Tinh thần này được thể hiện rỏ trong bài sám tụng lễ thế phát xuất gia, tức là buổi lễ cạo đầu chính thức xuất gia:
“Thiện tại đại trượng phu,
Năng liễu thế vô thường,
Khí tục thú Nê - hoàn,
Công đức nan tư nghì,
Hủy hình thủ khí tiết,
Cái ái từ sở thân,
Xuất gia hoằng Phật đạo,
Thệ độ nhất thế nhân.”
Tạm dịch:
“Lành thay bậc trượng phu,
Hiểu được đời vô thường,
Bỏ tục hướng Niết-bàn,
Công đức khó nghĩ nghì,
Cát ái từ người thân,
Xuất gia hoằng Phật đạo,
Thề độ hết chúng sinh”.
Trong kinh Tứ thập nhị chương dạy tu hành: Tu hành giả, tu cải hành vi, xã ác thủ thiện, ly tục tùng đạo giả, hành trú tọa ngoại yếu cung kính, thuyết thoại yếu hòa bình. Ý bất tham, sân, si; thân bất sát đạo dâm, khẩu bất lưỡng thiệt, bất ác khẩu, bất vọng ngữ bất ý ngữ, bất khiết huân tửu đẳng, thị vi tu hành. (Ta hành là tu sửa hành vi, bỏ ác theo thiện, lìa đời theo đạo, đi đứng ngồi nằm phải oai nghi tề chỉnh, nói năng phải từ hòa ái ngữ. Tâm ý không tham lam, sân hận và si mê; miệng không nói lời hai lưỡi, không nói lời ác, không nói sai trái với sự thật, không nói lời thêu dệt, không uống rượi và các chất gây say, đó gọi là tu hành.)
Trước hết, chúng ta thử đặt lại câu hỏi vì sao đức Phật đi tu? Trong khi Ngài là một thái tử mà mong muốn của vua cha Tịnh Phạn là sau này kế nghiệp, trì vì đất nước. Ngài sống trong cảnh cung vàng điện ngọc vợ đẹp con thơ. Nhưng trong tâm tư Ngài vẫn luôn suy tư về kiếp sống nhân sinh. Sau khi Ngài đi ra bốn cửa thành thấy bốn cảnh già, bệnh và chết, Ngài hoảng hốt hỏi Sa nặc vì sao họ lại bị như vậy? Rồi sau đó Ngài gặp một vị sa môn dáng mạo uy nghiêm thoát tục, từ đó nung nấu trong ngài chí nguyện xuất gia tìm cầu chân lý. Vua Tịnh Phạn nghiêm cấm việc xuất gia của Ngài, bằng cách cho xây dựng bốn cung điện theo bốn mùa, xuân, hạ thu, đông và cưới hỏi công chúa Gia du đà là sau đó sanh hoàng nam là La hầu la. Những tưởng như vậy là có thể trói buộc được ngài. Nhưng từng đó cũng không làm ngài say đắm vui hưởng thú dục lạc cuộc đời.
Khi vua cha Tịnh Phạn ngăn cấm thái tử xuất gia, Ngài liền đặt bốn câu hỏi cho vua cha, đó là: Làm sao cho con trẻ mãi không già? Làm sao cho con lành mạnh hoài không ốm đau? Làm sao cho con sống hoài không chết? Làm sao cho chúng sinh hết khổ? Vua Tịnh Phạn không trả lời được một trong bốn câu hỏi đó. Nên đêm mòng 8 tháng hai Ngài vượt thành xuất gia, tìm cầu chân lý giải thoát. Sau ba lần tầm thầy học đạo và sau sáu năm khổ hạnh rừng già, cuối cùng sau bốn mươi chín ngày đêm thiền định dưới cội Bồ đề đức Phật đã chứng thành đạo quả Vô thượng Bồ đề thành Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni. Từ đó, đức Phật khai sáng ra con đường tỉnh thức nhằm giáo hóa chúng sinh tỉnh thức cơn mộng dài sinh tử trầm luân đến b an vui giải thoát.
Nhiều người đời cho rằng, đi tu là chán đời, thất tình, tuyệt vọng. Câu chuyện Lan và Điệp và những câu chuyện được truyền trong dân gian về sự bi quan yếm thế của người tu đó là do hậu quả của việc đạo Phật suy vong dưới thời pháp thuộc. Lúc này Thiên chúa giáo chiếm ưu thế, vì sự bảo hộ của thực dân pháp. Người xuất gia chính thức trong chùa không có, toàn là những ông từ giử chùa. Một diện mạo đạo Phật lu mờ, suy yếu do đó những hình ảnh tiêu cực được gán cho Phật giáo.
Về quan điểm đi tu là bi quan, yến thế có một cô gái đến hỏi Quý Thầy:
Thầy ơi đi tu để mà chi ?
Tương chao, dưa muối có ích gì !
Tuổi trẻ đời trai sao lại chán ?
Thôi về xây mộng với em đi !
Quý thầy trả lời:
Xây mộng với em để làm chi?
Tử tử, thê thê có ích gì?
Đời khổ hoa tàn thầy chẳng thiết
Con đường Phật quốc quyết thầy đi.
Giải điều trần cấu nước dương chi
Ảo hóa trần gian có ích gì
Thinh sắc phù hoa tuồng giả tạo
Khuyên người mau tỉnh giấc mơ đi.
Đạo đời hai ngã luyến lưu chi
Thôi chớ hoài mong luyến tiếc gì
Oan trái đã thông duyên chẳng có
Đường hoa người bước, đạo thầy đi.
Thầy đây đi tu để thoát ly
Tương chao, Dưa muối, dưỡng tánh bi
Tuổi trẻ đời trai đâu gì chán
Thôi đừng níu kéo để thầy đi.
Đây là một bài thơ vui, nhưng phản ánh nội dung sâu sắc đó là nhận chân được cuộc đời là giả tạm, xuất gia tu hành là giá trị chân chính và cao quý nhất. Những câu hỏi về cật vấn người xuất gia đã có từ lâu. Trong Mâu Tử Lý Hoặc Luận của ngài Mâu Bác đề cập đến nhiều vấn nạn của người đời đối với người xuất gia. Ví dụ như câu chuyện về báo hiếu, Nho gia cho rằng “bất hiếu hữu tam, vô hậu vi đại” Trong ba điều bất hiếu, không có con cái nối dõi, thờ tự là tội bất hiếu lớn nhất! Theo Phật giáo, mục đích của hiếu hạnh là kết nối truyền sự yêu thương, hướng con người đi đến sự bình an nội tại, tìm hạnh phúc chân thật trong cuộc sống. Chủ yếu là áp dụng hạnh hiếu bằng thái độ và hành động đối với cha mẹ và những người quyến thuộc như thế nào để được lợi lạc. Việc xuất gia tu hành, cạo bỏ râu tóc, sống một đời sống không gia đình không chỉ tự hoàn thiện bản thân mà còn có khả năng báo hiếu cho cha mẹ, hướng dẫn cha mẹ sống đúng chánh pháp, đưa đến sự an lạc, hạnh phúc.
Khổng Tử nói rằng: “Thân thể, da tóc, là nhận được từ cha mẹ, không được hủy hoại, là khởi đầu của hiếu”. Câu này ý nói, thuận theo đạo hiếu bắt nguồn từ việc yêu quý và trân trọng thân thể của mình. Bởi lẽ thân thể của mình là do cha mẹ sinh ra. Nếu thân thể bị tổn hại sẽ khiến cha mẹ đau lòng. Như vậy, người tu cạo bỏ râu tóc là bất hiếu.
Với trí tuệ của đạo Phật thì kiếp người đầy đau khổ, mà nỗi khổ lớn nhất là luân hồi tái sanh. Cho nên người xuất gia tu hành chân chánh có thể hướng dẫn cha mẹ và quyền thuộc hiểu được chân lý mà tu tập để giải thoát khỏi luân hồi. Đây mới là việc lớn thì đối với chuyện “cạo tóc”chỉ là những tiểu tiết mà thôi. Cạo bỏ râu tóc ý nói dứt trừ phiền não, tâm hình khác tục để nhắc nhở chuyên tâm tu học. Khi nhát dao đầu tiên cạo thì “nguyện đoạn tất cả các điều ác”, nhát dao thứ hai “nguyện tu tất cả các việc thiện”, nhát dao thứ ba “thề nguyện độ tất cả chúng sinh”. Như vậy việc cạo tóc của các tu sĩ Phật giáo không phải là việc để khẳng định họ có hiếu hay bất hiếu. Trong tuyển tập thơ của Sư bà Thể Quán, vị Ni trưởng đáng kính của Phật giáo Huế có bài thơ cạo tóc rất dễ thương:
“ Soi gương thấy trọc đầu
Vừa cười lại vừa khóc
Tiếc gì ba sợ tóc
Thôi nín đi mà học”.
Quan điểm hiếu hạnh của Phật giáo không chỉ đề cao trên phương diện cung phụng vật chất mà cả phương diện thực nghiệm tâm linh để tu tập giải thoát “Mười phương chư Phật đều bắt nguồn từ tâm hiếu”. Không có một người nào thành Phật thành Thánh mà bất hiếu. Vì vậy hiếu là cuội nguồn của mọi hạnh lành. Con người không chỉ hoàn thiện nhân cách mà còn biết quý trọng ông bà, cha mẹ, anh chị em, hòa thuận với mọi người trong xã hội và không ngừng nỗ lực tích cực đóng góp cho đất nước, cho đời, cho đạo. Chính Mâu Tử, người tiếp thu giáo lý nhà Phật ở thế kỷ thứ 2, từng phát biểu trong tác phẩm Lý hoặc luận khi ông trả lời cho giới trí thức Nho gia về con đường chánh đạo của Phật giáo chính là đạo Hiếu: “Ở trong nhà thì hiếu thảo với cha mẹ, ra ngoài xã hội thì cứu dân độ thế, khi ngồi một mình thì tu thân”.
Có Phật tử bên Mỹ kể câu chuyện tu hành của mình rằng: Lâu không gặp ở mấy đám tiệc tùng, nhảy nhót, ca hát bạn bè hỏi thăm đi đâu mà vắng bóng lâu vậy? Phật tử ấy trả lời: “Đi chùa, bây giờ tôi tu rồi!”. Nghe trả lời như vậy bạn bè thất vọng kêu trời “Đời sống ba vạn sáu ngàn ngày có là mấy, sao đang làm ăn thành công như vậy mà lại bỏ ngang, lo tu?”. Mấy người trong bàn tiệc bắt đầu xoay qua đề tài “Tu và Đạo Phật”. Người thì bàn bây giờ còn trẻ để hưởng cho hết cuộc đời trước, khi nào già rồi hãy tu. Người thì lý luận sống là tranh đấu, tu là bi quan yếm thế. Có người tiếc rẻ cho mấy người tu, được sống ở Mỹ có nhiều thịt cá không ăn cho khoái khẩu mà ăn chay, kiếp sau sinh ra ở Ấn Độ hay Phi châu không có thịt cá để ăn, sẽ hối tiếc! Hồi trước nếu nghe người nào nói trái ý, xúc phạm đến tôn giáo của tôi là tôi nhào vô cãi lẫy, hùng biện, tranh luận, phải trái hơn thua, có khi nổi nóng tôi nói nặng làm mất bạn bè vì những chuyện không đâu. Nay nhờ đi chùa và nghiền ngẫm kinh sách tôi không phản ứng ngay, mà trầm tĩnh quan sát người ta thảo thuận. Tôi thấy người nào cũng giành phần đúng về mình, người nào không đồng ý với mình thì cho người đó dốt, không hiểu vấn đề... Thấy mấy ông bạn bàn về triết lý cao siêu của Đạo Phật tôi nghĩ đến chuyện những người mù xem voi
Không riêng gì những người không đi chùa nên không hiểu đạo, mà ngay cả người đi chùa thường xuyên cũng hiểu đạo sai lầm. Phần đông người đi chùa là ngững người lớn tuổi, nhiều người đến chùa cầm nhang lạy tứ phương rất mềm dẻo, thiện nghệ. Nhưng họ đi chùa không mong gì hơn là để “được phước kiếp này và kiếp sau”. Kiếp này được Trời Phật phù hộ cho có được đời sống an lành, con cái ăn học nên người, gia đình yên vui hạnh phúc. Kiếp sau được sinh ra ở cõi Trời, hay có làm người thì được sinh ra trong gia đình khá giả hơn...
Đạo Phật là một con đường giải thoát, giác ngộ. Phật là người đã tìm ra chân lý, tìm ra con đường đi đến sự giải thoát, an vui, tự tại (chấm dứt khổ đau). Con đường đó Phật giảng giải, chỉ vẽ dựa theo kinh nghiệm “Ngộ” mà Ngài đã chứng nghiệm được sau sáu năm khổ hạnh tu tập và 49 ngày nhập định dưới cây bồ đề. Sau thời gian tu tập này Phật là bậc giác ngộ hoàn toàn, đạt đến Niết Bàn và Phật đã bình đẳng tuyên bố “Ta là Phật đã thành, các người là Phật sẽ thành nếu các người tu theo con đường (đạo) ta chỉ dạy”.
Do đó, tu không phải chỉ lạy lục van xin mà phải hiểu giáo lý để áp dụng vào cuộc sống hiện tại sao cho an lạc. Tu là sửa. Sửa đổi cho được tốt hơn, là dừng lại, là chuyển hóa cái tri thức sai lầm về thực tại. Vì tri thức sai lầm, chúng ta phát sinh tham, sân, si rồi hành động tạo nghiệp. Có chính kiến chúng ta sẽ thay đổi thái độ với vạn vật, nhờ đó thế giới trở nên an lành, vui tươi , hạnh phúc hơn.
Khi tâm ta không còn bị tham sân si điều khiển, khi tâm ta không còn vướng mắc với những cảm thọ chấp, ngã, chúng ta sẽ đạt đến Niết bàn. Đó là một trạng thái yên bình tối thượng, thanh tịnh, tự tại, giải thoát ở kiếp này, nhờ đó nghiệp lực chấm dứt, không còn sức lôi dẫn chúng ta luân hồi trong lục đạo ở kiếp sau. Thành ra, người quyết chí tu thì xem sanh tử sự đại, tấn tóc vô thường, mọi người nên cần tinh tấn tu hành, như cứu lửa trên đầu, cần trọng chớ buông lung.
Ngày xưa, hoàng tử con triệu phú Cấp Cô Độc ban đầu được cha dụ đi nghe pháp từ đức Phật thuyết về cha sẽ cho tiền. Ham tiền, hoàng tử đến nghe Phật thuyết pháp. Ngày đầu đến cậu ta ngủ, kết thúc buổi thuyết pháp của Phật về nhà cậu nhận được tiền từ cha. Dần dần đến ngày thứ ba, khi cậu ta thử lắng nghe Phật nói gì, và cậu bắt đầu hiểu và thích, cứ như vậy sau ba Ngài hoàng tử nghe pháp mà không nhận tiền nữa, mà ngày nào cũng đến nghe Phật thuyết pháp. Có một người ăn xin ở Mỹ, hằng ngày ông ngồi xin bên vệ đường. Một hôm có một cô gái đến cho ông tiền vô tình đánh rơi chiếc nhẫn cưới vào trong loong đựng tiền của ông ăn xin mà không biết. Sau khi cô gái đi, người ăn xin thấy chiếc nhẫn giá trị nằm trong loong của mình. Nếu như người khác khởi tâm tham sẻ bán chiếc nhẫn đó để có tiền. Đằng này ông không làm thế, ông ngồi chỗ củ hằng ngày đợi cô gái đến để ông trao lại. Một tuần sau cô gái mất chiếc nhẫn đến tìm ông và ông già ăn xin trao chiếc nhẫn cưới lại cho cô gái. Cô gái mừng rở, tưởng những điều như trong mơ, không có trong đời thực. Cô về nhà kể lại cho chồng sắp cưới của mình về câu chuyện mất chiếc nhẫn đính hôn. Anh chàng vô cùng cảm kích và liền tìm đến ông già ăn mày để thực hiện một phóng sự và cho lên đài truyền hình. Câu chuyện ông già ăn xin trả lại chiếc nhẫn cho cô gái được nhiều người biết và họ liền vận động, quyên góp hơn cả trăm ngàn đô la cho người ăn xin. Thông qua đài truyền hình người chị của ông mất tích hơn mấy chục năm có cơ hội tìm lại người em trai của mình. Từ đó hai chị em gặp nhau, và số tiền ông có được từ nhiều người ủng hộ đã biến ông trở thành một người đủ ăn khá giả và lại đoàn viên gia đình. Câu chuyện cho chúng ta một bài học sâu sắc về sự vô tham. Đúng như câu nói: “tri túc tâm thường lạc, vô cầu phẩm tự cao”. Đó cũng là một kết quả của sự tu hành trong cuộc sống đời thường.
Việc tu hành trong kinh tạng Pali đức Phật dạy rất thiết thực. Ngài dạy cần phải tu tập theo các phương thức để đưa đến sự thành công hay thất bại của một người. Nếu một người mà: 1. Thường xuyên liên hệ với những kẻ xấu, ít liên hệ với những người tốt; 2. ham mê ngủ, lười biếng, không năng động, thường hay sân hận và ham thích đám đông; 3. giàu nhưng không chăm sóc cha mẹ; 4. không chân thật, lừa dối những người thiện tri thức; 5. sở hữu tài sản nhiều nhưng không chia sẻ bớt cho bất cứ ai; 6. ngã mạn tự cao về thân phận, sự giàu có và khinh khi người khác; 7. tham đắm tận hưởng những thú vui dục lạc, quan hệ lăng nhăng, lãng phí trong chi tiêu; 8. có mối quan hệ bất hợp pháp với vợ của người khác; 9. là luôn luôn ghen tị với vợ; 10. ăn uống vô độ và lãng phí; 11. lòng tham vô đáy. Bất cứ ai sống có liên hệ đến 11 vấn đề trên sẽ dẫn đến một kết cục tối tăm và thất bại. Mười một yếu tố trên thường xảy ra trong đời sống hằng ngày. Có thể có gia đình thường xuyên liên hệ đến một hoặc vài vấn đề nêu trên hoặc liên hệ đến trọn vẹn tất cả các vấn đề ấy thì điều dẫn đến bại vong.
Trái lại, trong Mahāmangalasutta đưa ra mười một lý do thành công hay mười một phước lành trong một gia đình nếu một người sống mà 1. không liên hệ với người xấu, thường xuyên thân cận gần gũi người hiền, bạn tốt; 2. sinh sống trong một nơi thích hợp và luôn biết kiểm soát bản thân; 3. luôn biết học tập, rèn luyện những kỹ năng, kỹ luật tốt từ những người giỏi trao truyền; 4. biết thờ mẹ kính cha, biết săn sóc bảo vệ trẻ em và vợ; 5. biết bố thí, cúng dường, sống có đạo đức, bảo vệ người thân, và những người lương thiện; 6. từ bỏ và tránh xa tội lỗi, kiềm chế say rượu, có niềm tin bền bỉ đối với Chánh pháp; 7. tôn kính và khiêm nhường, biết ơn và nhớ ơn; 8. kiên nhẫn và nói lời dịu dàng từ ái, liên hệ với người trí, đàm đạo đúng thời; 9. biết hổ thẹn sám hối để cho thanh tịnh, nhận ra những chân lý cao quý để hướng đến Niết bàn giải thoát; 10. tâm không buồn phiền bực tức não hại, luôn bất động giữa cái xáo trộn của thế giới; 11. đạt được những phước lành cao nhất do thành tựu những điều ở trên. Đó là 11 yếu tố đưa đến thành công trong cuộc sống.
Tu không phải bắt buộc chúng ta làm cái gì cao siêu, mà thực hành những việc đơn giản. Ngày xưa khi nghe danh tiếng của Ô Sào thiền sư, Tô Đông Pha liền đến hỏi đạo. Ông nói, nghe Thiền sư nổi tiếng vậy có đạo lý gì hay ông dạy cho tôi nghe. Ô Sào thiền sư trả lời, tôi có một đạo lý này, đó là: “Không làm các việc ác, siêng làm các việc lành, giữ tâm ý trong sạch, đó là lời Phật dạy.”Tô Đông Pha có vẻ xem thường lời dạy này nên nói, tôi tưởng ngài có pháp gì cao siêu dạy cho tôi chứ mấy thứ này đứa con nít cũng biết. Ô Sào thiền sư điềm tỉnh trả lời, đúng vậy, đạo lý này đứa con nít biết nhưng ông già tám mươi chưa chắc đã làm được. Nghe vậy, Tô Đông Pha hết kêu ngạo xem thường và kính nể Ô Sào Thiền sư.
Một người biết tu sẻ cảm ứng trong tư duy hành động của họ. Tâm ý nghĩ sao thì hành động vậy và kết quả theo đó mà thành. Ví dụ như câu chuyện giữa thầy Đàm Thuận Huy với các học trò của mình. Một hôm, trời mưa to nên đã đến giờ tan học mà các học trò vẫn phải nán lại chưa thể về được, nhân đó Đàm Thận Huy ra vế đối cho các học trò.
Vế ra: Vũ vô kiềm tỏa, năng lưu khách(Mưa, dù không xích không khóa, cũng có thể giữ chân khách ở lại)
Người học trò thứ nhất đối: Sắc bất ba đào, dị nịch nhân(Sắc đẹp, dù chẳng phải sóng gió, cũng dễ làm cho người ta chìm đắm.
Đàm Thận Huy nhận xét: “Câu đối này thật hay và thật chỉnh, văn khí này có thể đậu Trạng nguyên, nhưng về sau coi chừng việc sắc dục làm hại sự nghiệp”. Quả nhiên, Nguyễn Giản Thanh làm quan đến Lễ Bộ Thượng Thư kiêm Hàn lâm viện Thị độc, Chưởng viện sự, tước Trung Phụ bá, nhưng vì say đắm cô gái đẹp ở kinh thành mà đến ô danh bại giá.
Người học trò thứ hai đối: Nguyệt hữu loan cung bất xạ nhân(Trăng có cung loan mà không bắn người)
Đàm Thận Huy đánh giá: “Câu này kém sắc sảo, không hay bằng câu kia, nhưng tỏ ra khí chất hiền hoà, sau này sẽ làm nên, cuộc sống sẽ chu toàn! Người này làm quan thanh liêm, bản chất lương thiện rất được lòng dân”.
Lại một trò nữa lên tiếng: Phân bất uy quyền dị khủng nhân(Cục cứt chẳng có uy quyền gì mà khiến người ta phải sợ)
Đàm Thận Huy cho rằng người đối câu này về sau tuy rất giàu có nhưng lại keo kiệt bủn xỉn, kết quả người học trò kia sau cũng vào bậc hào phú trong vùng, nhưng ai cũng chê là hạng thô lỗ, bỉ ổi.
Qua ba câu đối lại, người thầy biết được tương lai của các học trò của mình. Sinh tâm ý tứ, tâm nghĩ sau thì cảm ứng vậy. Cho nên tu trong tư duy, hành động và lời nói. Tu tâm là quan trọng, bởi tâm làm chủ tâm tạo tác như kinh Pháp Cú nói là hoàn toàn xác đáng.
Tu hành cần thực tập buông bỏ. Nếu không buông bỏ thì dễ sinh phiền não. Câu chuyện về Alexander cho mọi người một bài học quý giá.
Ngay từ năm 16 tuổi, Alexander đã bắt đầu theo cha rong ruổi chinh chiến và học hỏi những kỹ năng chiến trận từ cha mình, hoàng đế Philip. Năm 336 TCN, Alexander chính thức lên ngôi hoàng đế xứ Macedonia. Lên kế vị không lâu, ông bắt đầu tiến hành các cuộc chinh phạt không ngừng mở rộng lãnh thổ.
Bằng tài năng quân sự thao lược của mình, Alexander đã đạp cả Hy Lạp dưới gót chân, hướng mũi giáo chinh phạt Tiểu Á, Ba Tư, Lưỡng Hà, Ai Cập… Thậm chí, Alexander còn đi xa hơn tất cả những người tiền nhiệm của mình khi mang quân áp sát tới tận biên giới phía bắc Ấn Độ, lưu vực sông Ấn.
Chỉ trong vòng 13 năm ngắn ngủi, Alexander dựng nên một đế chế trải dài từ Âu sang Á, bao gồm tất cả các trung tâm văn minh lớn của thế giới cổ đại. Ông cũng là một mãnh tướng “bất khả chiến bại” theo đúng nghĩa đen, chưa từng thua bất kỳ trận nào trong nghiệp cầm quân.
Sau khi không thể tiến thêm về phía đông, Alexander cuối cùng cũng từ bỏ kế hoạch viễn chinh của mình và thừa nhận giới hạn của đế chế dừng lại ở bờ sông Ấn. Năm 323 TCN, trên đường trở về Babylon, Alexander mắc trọng bệnh rồi qua đời ở tuổi 33.
Ước nguyện cuối cùng: Cái chết của ông đến nay vẫn nằm trong vòng bí ẩn. Tuy nhiên, câu chuyện về phút lâm chung của vị hoàng đế vĩ đại này vẫn được người đời truyền tụng không ngớt. Chuyện kể rằng trong giây phút cảm nhận được cái chết đang bủa vây lấy mình, Alexander đã cho gọi quần thần lại và dặn: “Trước khi chết, ta có 3 điều muốn các ngươi thực hiện, nhất định không được trái ý”.
Cụ thể, ba điều đó như sau:
- Ông muốn tất cả các ngự y giỏi nhất khiêng quan tài của mình trở về.
- Ông muốn binh sĩ rải hết vàng bạc, châu báu, ngọc ngà mà mình để dành cả đời suốt dọc con đường dẫn ra nghĩa địa.
- Ông muốn người ta đặt bàn tay của mình thò ra bên ngoài nắp quan tài, để tất cả đều nhìn thấy được.
Quần thần của Alexander đều vô cùng kinh ngạc, cho rằng hoàng đế của mình đã không còn tỉnh táo. Alexander lấy sức thở một hơi dài, đoạn nhìn tất cả một lượt và nói: “Sở dĩ ta yêu cầu các ngươi làm điều đó là muốn nhắn nhủ với con người thế gian 3 điều này”:
Thứ nhất, thầy thuốc giỏi đến thế nào cũng không thể thực sự chữa khỏi bệnh cho chúng ta. Khi đối diện với cái chết, họ cũng đành bất lực. Vì vậy, hãy biết trân quý sinh mệnh của mình.
Thứ hai, tiền bạc, của cải dù nhiều đến đâu, khi chết đi cũng trở thành vô nghĩa, chỉ có thể dùng để lót đường mà thôi.
Thứ ba, khi giã từ cõi đời, thứ con người thực sự còn lại chỉ là hai bàn tay trắng. Ta đến và đi đều là như vậy, cớ sao phải ôm giữ quá nhiều?
Nói xong, Alexander thở dài một tiếng rồi từ từ nhắm mắt. Một cuộc đời oanh oanh liệt liệt với bao chiến công kết thúc như vậy đấy!
Câu chuyện trên dạy cho người đời biết thực tập buông bỏ. Ý thức được sự tu hành là cao quý. Mọi sự vật trên đời là vô thường, giả huyển. Do vậy không nên tham đắm nhiều, vì tham đắm càng nhiều thì khổ não càng nhiều hơn.
Tóm lại, người tu hành không hề có sức mạnh ngàn cân nhưng sức mạnh của người tu là sức mạnh tâm linh. Làm sao ta có thể chịu được tất cả những nghịch cảnh. Những người tu luôn có một sức mạnh thầm lặng bên trong chớ không phải biểu hiện ra bên ngoài. Nhìn vào một con người thì yếu tố đầu tiên chiếm được thiện cảm của chúng ta là nét hiền lành đức hạnh của người ấy. Người có gương mặt phúc hậu hiền lành cũng nói lên được phần nào đặc tính bên trong. Cho nên khi con người tu tập thành công sẽ có nội lực vững vàng, có sức mạnh mà nhà Phật gọi là đạo lực. Và sức mạnh này khác với sức mạnh thế gian. Người tu mạnh không phải để ăn hiếp người khác mà là để an ủi và đem lại nguồn vui cho chính mình và mọi người. Vì vậy một khi đã tu hành thành công bản thân người đó sẽ vượt qua mọi khó khăn thử thách bên ngoài và diệt trừ những nghiệp tập phiền não bên trong con người mình.
Khi học hiểu Phật pháp thì chúng ta biết nhân quả có thể chuyển được nên không nên tạo thêm những nghiệp nhân xấu mà hãy vui vẻ trả những nghiệp quả mình đã gây tạo từ nhiều đời trước. Đừng nuôi dưỡng thêm tình cảm thương ghét nữa để tránh họa khổ trong đời này và những đời sau. Chúng ta hiểu đạo rồi thì đối với người thương kẻ ghét nên mở rộng lòng ra đừng thương ghét thêm vì như thế sẽ gặp gỡ nhau nữa. Mỗi lần gặp gỡ trong sinh tử là thêm một lần thọ khổ như thế có gì vui sướng đâu. Sao chúng ta không nhớ đến nỗi khổ ấy mà cố gắng tu tập để vượt thoát. Sự nghiệp của người tu chính là trí tuệ và sự tha thứ. Dùng trí Bát nhã chiếu soi là tất cả vấn đề rụng xuống hết không riêng gì nỗi khổ. Chúng ta phát tâm tu hành mục đích là để được giải thoát cho nên chỉ có tháo gỡ chứ không vướng mắc trói buộc thêm vào. Làm sao đứng vững trên đôi chân của mình mới có thể đi suốt con đường Phật đạo để có thể ra khỏi trầm luân sinh tử. Cho nên bản thân mỗi người cần phải chuẩn bị cho mình một sức mạnh đạo lực kiên cố và vững bền.
Thích Trung Định
Bài giảng tại đạo tràng Hương Từ, Thuận An, Huế, ngày 24.05.2020
Tài Sản Của Người Tu
Một thời, Thế tôn trú ở Sāvatthi, tại Jetavāna, gọi các Tỷ kheo:
Này các Tỷ kheo, có bảy tài sản này, thế nào là bảy?
Ở đây, vị Thánh đệ tử có lòng tin, tin tưởng vào sự giác ngộ của Như Lai, gọi là tín tài.
Ở đây, vị Thánh đệ tử từ bỏ sát sanh, trộm cắp….say sưa, gọi là giới tài.
Ở đây, vị Thánh đệ tử có xấu hổ đối với thân, miệng, ý làm ác, gọi là tàm tài.
Ở đây, vị Thánh đệ tử có sợ hãi đới với thân, miệng, ý làm ác, gọi là quý tài.
Ở đây, vị Thánh đệ tử nghe nhiều, giữ gìn những gì đã nghe, đề cao đời sống phạm hạnh, đọc tụng nhiều lần, chuyên tâm quán sát, thành tựu chánh chiến, gọi là văn tài.
Ở đây, vị Thánh đệ tử với tâm từ bỏ xan tham, ưa thích xả bỏ, san sẻ vật bố thí, gọi là thí tài.
Ở đây, vị Thánh đệ tử có trí tuệ về sanh diệt, thành tựu Thánh thể nhập, đưa đến chơn chánh đoạn diệt khổ đau, gọi là tuệ tài.
Này các Tỷ kheo, đây gọi là bảy tài sản, ai có được những tài sản này, được gọi là không nghèo khổ.
(ĐTKVN, Tăng Chi Bộ III, chương 7, phẩm Tài sản, phần Các tài sản rộng thuyết, VNCPHVN ấn hành, 1996, tr.280)
LỜI BÀN:
Nói đến tài sản, người ta thường nghĩ đến sự sở hữu nhiều thứ như tiền bạc, nhà cửa, đất đai….càng có nhiều tài sản thì càng được tiếng giàu có và nhất là cảm giác ổn định, bền vững trong cuộc sống được gia cố vững chắc thêm. Vì thế, làm giàu đúng đắn, lương thiện là tiêu chí chung cho toàn thể nhân loại phấn đấu, hướng đến xây dựng một đời sống hoàn thiện, sung mãn.
Tuy vậy, xây dựng tài sản vật chất chỉ là một phần của cuộng sống. Sẽ là một sai sót lớn cho cá nhân và cả xã hội nếu chỉ chú trọng tạo dựng tài sản vật chất mà xem nhẹ hoặc quên mất việc làm giàu, phát triển tài sản tinh thần. Sự mất quân bình trong quá trình phát triển vật chất và tinh thần sẽ tạo ra những khủng hoảng xã hội, nhất là các vấn đề như băng hoại đạo đức, suy đồi nhân cách, những quan niệm sống lệch lạc thiên về hưởng thụ, vong thân vong bản…..
Đối với người tu thì “xả phú cầu bần” là một trong những điều kiện cần để góp phần tích lũy, thăng hoa gia sản tinh thần. Tài sản tinh thần tuy vô hình nhưng rất đồ sộ và không khó để tạo dựng. Chẳng cần phải cạnh tranh khốc liệt “thương trường là chiến trường” vẫn kiến tạo được tài sản tinh thần tín, giới, tàm, quý, văn, thí và tuệ.
Tài sản tinh thần là tặng phẩm của tạo hóa vốn dĩ hào phóng ban tặng đầy đủ cho mỗi người. Tìm lại những gì thánh thiện uyên nguyên đã lãng quên và đánh mất là cách lam giàu của người tu. Tài sản này một khi đã tích lũy được sẽ làm cho những ai sở hữu nó thật sự giàu có, hạnh phúc và bền vững trước mọi biến động của thời cuộc.
Thích Quảng Tánh
Im Lặng Như Pháp
Người ta thường nói: “Im lặng là vàng”, nghĩa là sự im lặng có giá trị cao quý giống như vàng thật sự. Tại sao sự im lặng mà có giá trị lớn lao như vậy? Im lặng đã giúp ích được vấn đề gì cho con người trong cuộc sống? Vấn đề này nghe có vẽ như mâu thuẩn. Bởi vì, trong cuộc sống, sự nói năng giao tiếp có một chức năng vô cùng quan trọng chi phối mọi hoạt động của con người. Ngôn ngữ có khả năng chuyển tải mọi thông tin cần thiết giúp cho con người hiểu biết nhau hơn; là phương tiện truyền thông giữa con người với con người và giữa con người với cộng đồng xã hội. Ngôn ngữ còn biểu đạt được cả tâm tư tình cảm bên trong của con người. Ngôn ngữ còn là phương tiện đưa người ta đến với chân lý thực tại, thể nghiệm thực tại. Tất nhiên, ngôn ngữ có khả năng nâng người ta lên đến với chân-thiện-mỹ thì ngôn ngữ cũng có khả năng nhấn chìm con người trong vòng cương tỏa của tội lỗi. Ở đây, không bàn nhiều về vấn đề chức năng của ngôn ngữ mà chỉ muốn nói về thực tại phi ngôn, nhưng có khả năng hóa giải rất cao, đưa con người trở nên thánh thiện hơn.
Trong Phật giáo ngôn ngữ cũng có một vai trò rất lớn trong việc chuyển tải lời dạy của Phật. Hành giả nương theo lời dạy đó để tu tập nhằm đạt đến sự an lạc giải thoát. Hẳn nhiên, ngôn ngữ không phải là chân lý tối hậu, mà ngôn ngữ chỉ là phương tiện, để diễn đạt chân lý mà thôi. Đức Phật thường nhấn mạnh: “Nhất thiết Tu-đa-la như tiêu nguyệt chỉ”, hết thảy kinh điển đều như ngón tay chỉ mặt trăng, cần nương nơi ngón tay ấy để thấy mặt trăng, chứ ngón tay không phải là mặt trăng thật sự; hay “Như phiệt dụ giả”, giáo pháp như chiếc bè dùng để qua sông, mục đích chính là bờ bên kia, người qua sông rồi thì phải bỏ đò, chứ đừng qua sông mà ắt phải lụy đò. Từ ý nghĩa này, chúng ta dễ dàng hiểu câu nói: “Trong suốt 45 năm thuyết pháp độ sinh ta chưa từng nói lời nào.” Nói như vậy không có nghĩa Phật giáo phủ nhận vai trò và chức năng của ngôn ngữ. Ngôn ngữ giúp ích rất nhiều vấn đề trong cuộc sống của con người.Thế nhưng trên phương diện tuyệt đối thì ngôn ngữ quả thật không thể chuyển tải hết tất cả giá trị của chân lýthực tại. Vì ngôn ngữ là sản phẩm của tư duy, hay của thức khái niệm, phạm trù, nên nó có tính cách võ đoán, còn tận sâu thẳm bên trong của lý tánh tuyệt đối thì ngôn ngữ không thể diễn đạt hết. Đó là thực tại phi ngôn.
Ở đây, tôi muốn nói đến sự im lặng diệu kỳ hay vô ngôn trong Phật giáo, một thuật ngữ Phật giáo đã được biểu hiện giữa các cuộc đối thoại của các bậc thánh giả, nhưng nó có khả năng đánh thức tiềm năng giác ngộ, giải thoát cho con người.
Vô ngôn, thực chất khi trong tâm thức không còn có sự phân biệt hay khái niệm phạm trù. Nó dứt bặt cả tưởng và tư, nên nó không cắt xén thực tại. Vô ngôn là không lựa chọn, không chia chẻ và cũng không đánh giá tiêu chuẩnmột sự kiện nào hết. Sự im lặng diệu kỳ nó vượt lên trên ranh giới của nhị nguyên đối đãi, không đóng khung trong một giá trị định mức có tính chất ước lệ khuôn sáo. Đây là trí tuệ như thật hay gọi là “không tuệ” không bị dính mắc vào tư kiến, thị phi giữa hữu và vô; chơn và tục. Vô ngôn hay sự im lặng chỉ được cảm nhận giữa tâm với tâm “dĩ tâm truyền tâm”, khi hai tâm thức cùng cảm ứng trong một giai tầng nhất định thì sự đối thoại này vượt xa hơn đối thoại của ngôn ngữ thường tình.
Đầu tiên, chúng ta bắt gặp cái im lặng của đức Phật sau khi thành đạo. Sự im lặng này vừa để chiêm nghiệm lại quá trình chiến đấu và chiến thắng để thành đạo quả, đồng thời cũng để tận hưởng những phút giây an lạc thực sự sau khi chứng đắc Vô thượng Bồ đề. Sự im lặng này cũng để nói lên rằng: “Đạo của đức Phật chứng ngộ thì thật là cao xa mầu nhiệm, khó tin khó hiểu, chỉ với những bậc trí mới có thể hiểu được; còn chúng sanh thì ưa ái dục, ham thích ái dục nên khó mà tiếp nhận được giáo lý thậm thâm vi diệu này”. Khi đức Phật thuyết pháp độ sinh là vì lòng thương tưởng chúng sinh, ban vui cứu khổ, nên mở bày phương tiện quyền môn để tùy duyên hóa đạo, lợi lạc quần sanh.
Sự im lặng của đức Phật tại núi Linh Thứu, khi giữa hội chúng đức Phật đưa cành hoa sen lên, cả hội chúng không ai hiểu gì chỉ có ngài Ca Diếp mỉm cười tỏ ngộ “Niêm hoa vi tiếu”, rồi đức Phật phú pháp cho ngài Ca Diếp: “Ta có chánh pháp nhãn tạng, Niết bàn diệu tâm, thực tướng vô tướng, nay phú chúc cho Ca Diếp”, rồi Ngài truyền pháp kệ:
“Pháp pháp bổn vô pháp
Vô pháp pháp diệc pháp
Kim phú vô pháp thời
Pháp pháp hà tằng pháp”
(Pháp nó vốn là vô pháp, vô pháp cũng là pháp, nay phú vô pháp cho Ông, nhưng pháp ấy chưa từng là pháp).
Trong cuộc đời của đức Phật, chúng ta thấy phần lớn Ngài vẫn có nhiều sự im lặng lạ kỳ. Mỗi khi có ai đến vấn nạn thì Phật thường im lặng nhiều hơn là trả lời Thông thường mỗi khi chúng đệ tử thưa thỉnh một vấn đề gì, nếu không chấp nhận thì đức Phật từ chối; còn chấp thuận thì Ngài mặc nhiên. Sự im lặng cũng thấy diễn ra trong việc tác pháp yết ma của Tăng. Nếu yết ma thành thì Tăng im lặng mặc nhiên, nếu không thành thì Tăng có ý kiến. Sự im lặng biểu hiện sức mạnh tự nội, sự đồng thuận nhất trí cao trong tinh thần hòa hợp thanh tịnh.
Sự im lặng của Tăng đoàn tại Kỳ viên Tịnh xá đã làm cho vua A-xà-thế phải kinh hoàng, sợ hãi, khi Jìvaka, một Y sỹ Phật tử dẫn ông tới yết kiến Phật vào một đêm nọ: “Này khanh Jìvaka, người phản ta chăng? Này khanh Jìvaka, người lường gạt ta chăng? Này khanh Jìvaka, ngươi nạp ta cho kẻ thù chăng? Tại sao trong một đại chúng lớn như thế này gần một nghìn hai trăm năm mươi vị, mà không có một tiếng đằng hắng, không có một tiếng ho, không một tiếng ồn? Biết được sự sợ hải của nhà vua trước một khung cảnh quá trang nghiêm thanh tịnh này nên Jìvaka lập tứctránh an, rồi dẫn nhà vua đến diện kiến đức Phật. Từ lần diện kiến này, vua A-xà-thế đã thực sự chuyển đổi cuộc đờisang một hướng mới, hướng của an lạc giải thoát. Chính trong những phút giây này, A-xà-thế đã khởi lên ăn năn với những lỗi lầm của mình, nhờ vào năng lực của Phật của Tăng mà vua đã làm được cuộc cách mạng vĩ đại trong cuộc đời. Từ một ông vua bạo ác hung tàn trở thành một ông vua Phật tử thuần thành hộ trì Tam. Sự im lặng đó quả thật có một năng lượng đặc biệt có khả năng chuyển hóa thanh lọc từ tận trong bản thể uyên nguyên của nội tâm, tẩy trừ tất cả mọi cấu uế lỗi lầm để trở nên thanh tịnh tuyệt đối. Sự chuyển hóa này không có sự gượng ép. Mà hoàn toàn tự nhiên như ly nược lặng yên thì cặn bả lắng xuống. Thành ra khi chuyển đổi quan điểm không có sự đối kháng, do dựhay khởi lên một sự nghi nghờ nào hết.
Trong bài kinh Thánh cầu thuộc tuyển tập Trung Bộ, Đức Phật nhấn mạnh đến hai việc làm quan trọng của người xuất gia. Đó là thảo luận Chánh pháp hay giữ sự im lặng của bậc Thánh . Việc thứ nhất – thảo luận Chánh pháp, ngụ ý rằng người xuất gia phải tập trung học hỏi, nghiên cứu và thảo luận về giáo pháp của Phật để hiểu rõ về ý nghĩa, phương pháp và mục đích của việc tu học Phật pháp. Việc thứ hai – giữ sự im lặng của bậc Thánh, hàm ý sự chuyên tâm tu tập hay hành trì giáo pháp của Phật, cụ thể là việc tu thiền hay phát triển nội tâm theo lời Phật dạy.
“Im lặng như Chánh pháp” là im lặng bên trong, là tĩnh lặng tâm thức. Nghĩa là dừng lại, làm cho im lắng các ý tưởng, các suy tư, ý niệm phân biệt, các vọng thức hay tạp niệm. Đó là im lặng tự nội, kết quả của phép điều tâm rất căn bản và sâu sắc trong đạo Phật.
Nhiều cái im lặng của Phật và các Thánh tăng đã thực sự làm lay chuyển tâm thức của nhiều người. Có nhiều vị có thể gọi là “cứng đầu” nhất, nhưng sự im lặng kỳ diệu đã thu nhiếp được họ. Câu chuyện giữa ngài Mã Minh và Hiếp Tôn Giả là một trong những câu chuyện lý thú về diệu dụng của sự im lặng.
Trước khi theo Phật giáo, Mã Minh là một đại luận sư danh tiếng. Nhân nghe tiếng của Hiếp Tôn giả, bèn tìm đến thách thức luận chiến, và đặt cược bằng chính thủ cấp của mình. Mã minh dẫn chúng đệ tử đến trước Hiếp Tôn giảnêu luận điểm tranh luận: “Tất cả ngôn ngữ điều có thể bị phủ định.” Hiếp Tôn giả im lặng. Mã Minh không nhận được câu trả lời hay tranh luận của Hiếp Tôn giả, cho rằng ông này đã thua, bèn sinh tâm kiêu mạn: Hiếp Tôn giả này chỉ là hư danh, vì không bác bỏ nổi luận điểm của mình. Một thời gian sau, khi tự mình chiêm nghiệm về vấn đề, Mã Minhchợt khám phá ra lẽ và gọi chúng đệ tử đến và bảo: “Thật sự ta thua Hiếp Tôn giả. Vì luận điểm nói, “Tất cả ngôn ngữđiều có thể bị phủ định.” Vậy chính tiền đề đó tự thân đã bị phủ định rồi. Hiếp Tôn giả không nói gì, tất nhiên không có gì để bị phủ định.” Rồi Mã Minh đến, theo đúng giao ước, để giao nộp thủ cấp cho Hiếp Tôn giả. Nhưng Hiếp Tôn giảnói, “Tôi không cần cắt thủ cấp của ông, mà chỉ cần cắt tóc của ông thôi.” Từ đó, Mã Minh thờ Hiếp Tôn giả làm thầy. Tất nhiên về sau làm đại luận sư của Đại thừa. Thế có nghĩa là sau sự im lặng, Mã Minh lại nói, và lại nói nhiều hơn nữa để chấn hưng đạo pháp.
Tất nhiên, về phương tiện lý giả, giữa nói năng và sự im lặng, thì sự im lặng là trình độ diễn đạt cao hơn, sâu hơn. Cho nên sau khi tường thuật chuyện Hiếp tôn giả, Cưu-ma-la-thập kết luận: “Nói và im lặng tuy khác nhau nhưng minh tông thì một. Điểm hội tụ là duy nhất, nhưng dấu đi đến có tinh có thô. Nói ở nơi cái không nói, tất chưa bằng không nói nơi cái nói. Cho nên, luận bằng sự im lặng là chổ vi diệu của luận vậy”
Ở Việt chúng ta có thiền phái Vô Ngôn Thông, ngài là người ít nói nhưng thông minh. Trong lúc hoằng truyền Phật pháp Ngài cũng ít dùng lời nói mà phần nhiều dùng phương thức truyền tâm là chủ yếu. Theo Ngài ngay cả sự trao truyền tâm ấn cũng phải được hiểu như một sự trao truyền không trao truyền, không có người trao và người tiếp nhận và không có đối tượng trao và nhận. Chính sự im lặng này mà Ngài đã cảm hóa được Cảm Thành mà sau này thiền phái Vô Ngôn Thông truyền đến rất nhiều thế hệ và có một thời ảnh hưởng rất lớn ở nước ta.
Nói chung từ Phật đến Tổ tất cả đều dùng đến sự im lặng diệu kỳ để tùy cơ tiếp vật. Sự im lặng này tác độnglớn đối với tâm thức của con người xưa cũng như nay, mang lại lợi ích thiết thực, giải quyết được rất nhiều vấn đề mà không có sự xung đột nào. Ngày nay giữa một xã hội đầy biến động, sự ô nhiễm môi trường tràn lan trong đó có sự ô nhiễm của tiếng ồn. Thời đại của công nghệ thông tin hiện nay càng tìm cách làm cho người ta nói với nhau nhiều hơn. Nhưng càng nói nhiều thì càng rối ren thêm, có khi trở thành “miệng lưỡi đao búa”, gây nên khổ đau thù hận để rồi người ta xa nhau. Giữa lúc này thì sự im lặng kỳ diệu thật sự có giá trị thiết thực, không những làm cho môi trường thanh tịnh trong lành mà còn làm cho lòng người an tịnh nhiều hơn. Chúng ta có cơ hội để nhìn lại nội tâm của chính mình đẻ tìm lại nguồn hạnh phúc an lạc làm cho cuộc đời có ý nghĩa thật sự.
Từ trong sự im lặng diệu kỳ ấy, người ta tìm thấy được giá trị đích thực của cuộc sống. Để rồi khi nói năng giao tiếp tất cả đều xuất phát từ tâm chân thật, nói lời êm đẹp mang lợi lạc cho mọi người. “Lời nói không mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”.
Thích Trung Định
Tạp chí Văn hóa Phật giáo, số 344.
Cái Tôi Và Minh Triết Về “Cái Tôi”
Ngạn ngữ Tây phương nói: “ Cái Tôi là cái đáng ghét” ( Le moi est haissable). Mặc dù là một câu nói được nhiều người biết, nhưng đó mới chỉ là nhận xét hời hợt về cái gọi là Cái Tôi.
Đối với ngươi Đông phương, từ mấy ngàn năm nay, Cái Tôi được các nhà hiền triết Ấn Độ, Trung Hoa khám phá và theo dõi rất kỹ lưỡng và sâu sắc; đến nỗi họ mới lập nên một nền triết học về Bản Ngã, về Cái Tôi của con người; với chủ trương: muốn hạnh phúc thì phải giải thoát bản thân khỏi những ràng buộc của Cái Tôi, hoặc chuyển hóa “Cái Tôi Rác Rưỡi” trở thành Cái Tôi thanh khiết, chân thiện. Đặc biệt, đạo Phật dạy phải nỗ lực diệt trừ “lòng chấp ngã” và luôn luôn đề cao tinh thần Vô Ngã như là một trong Tam Pháp Ấn.
DIỆT TRỪ CĂN BỆNH CHẤP NGÃ
Một nhà sư trụ trì ngôi chùa nọ thường có những biểu hiện nóng nảy, kẹo bẩn. Nhưng vốn là người từng lập chí tu hành vững chãi, nên sư luôn luôn tự quán xét biết mình mang đại bệnh “chấp ngã” rất nặng và quyết tâm trừ bò cho kỳ được.
Hôm nọ, sư gọi chú tiểu duy nhất trong chùa tới bảo:
- Từ nay thầy nhập thất một thời hạn khoảng 3 năm để tu tập, cốt để diệt trừ cái bệnh Ngã Chấp của thầy. Con chăm sóc ngày 2 bữa cho thầy và ráng chăm nom mọi việc để thầy yên tâm ẩn tu nhé?
Người đệ tử cuối đầu lãnh ý.
Sau 3 năm miệt mài tu tập, hôm nọ sư vô cùng hân hoan mở cánh cửa thất, cười:
- Ta thành công rồi. Sau thời gian tu tập vô cùng miên mật, bây giờ ta đã dứt trừ được cái Ngã Chấp rồi. Bất cứ điều gì xảy ra cũng không còn làm ta động tâm! Con hãy mừng cho thầy!
Chú tiểu bỗng dưng trề môi ra dài thượt:
- Thầy mà trừ đặng Ngã Chấp thì cũng như… con chó mà chê phân người vậy!
Sư đỏ mặt tía tai, vung nắm đấm vào ngay mặt chú tiểu:
- Thằng này hỗn, ta cho mày biết tay!
Chú tiểu hét lớn:
- Con mới thử thách chút thôi, chưa chi mà thây đã nổi cái Ngã lên rồi!
Ngay khi ấy sư ông cũng vừa tỉnh ngộ, nhưng chẳng còn kịp nữa!
Một thiền sư bình luận:
- Chúng ta chớ cười chê vị sư ấy. chỉ tiếc rằng ông ấy chưa hoàn toàn thành công như ý muốn, thật ra tự biết mình Chấp Ngã, và lập phương án tu tập để trừ khử, thì sư cũng xứng đáng là một vị chân tu rồi, nhưng đâu dễ một sáng một chiều mà thanh toán xong cái món Chấp Ngã đã từng đeo theo con người suốt hàng ức triệu kiếp nay?
Quả thật khi chúng ta thấu đạt bệnh căn của mình tức là tự hiểu biết mình. Mà trên thế gian này, có điều chi quan trọng hơn việc Tự Hiểu Mình?
Triết gia Krihnamurti đã nói: “Tự hiểu biết lấy mình, chính là bước đầu của trí tuệ”.Cho nên câu hỏi : “Tôi là ai?” luôn luôn là vấn nạn khẩn cấp và trọng yếu nhất cho những người thao thức tâm linh đang mày mò tìm kiếm một cái gì đó. Cho đến khi họ nhận ra rằng: “Cái Tôi của bạn là Cái Ấy” (Your Self is That, hay theo Phạn ngữ Tat vam asi) thì con đường thong dong dường như đã xuất hiện trước mặt. (Thư Viện Hoa sen)
Hồi còn trẻ tuổi, nghe kể chuyện này chúng tôi bật cười. Sau này, qua bao nhiêu thăng trầm, bản thân tự xét thấy mình còn kém xa ở chỗ không dám đặt ra một chương trình tu luyện bản thân để cải tạo chính mình.
Cho nên bậc anh hùng thứ thiệt chính là kẻ tự nhìn thấy khuyết điểm của mình rồi ra sức tự chuyển hóa, cho đến khi trở thành con người hoàn thiện hơn.
TÔI KHÔNG BIẾT TÔI LÀ AI?
Arthur Schopenhauer (1788-1890) là một nhà triết học người Đức nổ tiếng với tác phẩm: “The World as Will and Representation” (Thế giới như ýchí và biểu hiện). Lý thuyết siêu hình của ông chính là nền tảng cho các tác phẩm về để tài tâm lý học, mỹ học, đạo đức học và chính trị học, những tác phẩm đã để lại tầm ảnh hưởng tới các danh nhân sau này như\; Friedrich Nietzche, Wagner, Ludwig Wittgenstein, Sigmund Freud và nhiều người khác.
Có thể ông ta đã đưa ra nhiều triết thuyết mới mẻ, gây cảm hứng cho nhiều triết gia nổi tiếng, có thể ông ta đã tung lên văn đàn lắm tác phẩm đặc sắc, và khởi đầu cho một sự nghiệp vĩ đại, nhưng trong thân sâu, của lòng mình, ông ta vẫn thắc mắc. Tôi là ai, mà chưa tìm ra đáp án.
Chuyển kể rằng:
Triết gia Arthu Schopenhauer hôm nọ đang bước đi một mình trên hè phố, chím đắm trong suy tư, ngẫu nhiêm đâm sầm vào người khác. Tức giận bời cú hích bất ngờ và cái dáng vẻ hờ hửng rõ ràng của đối phương, người bộ hành này hét lớn”
- “Này ông nghĩ ông là ai chứ?”
Vẫn còn đắm chìm trong suy tư, triết gia nói:
- “Tôi là ai ư?Tôi muốn biết điều ấy biết bao!”
Chẳng có ai biết cả.
Nhận thức được điều này – rằng tôi không biết tôi là ai- thì cuộc hành trình tâm linh bắt đầu.
NGƯƠI LÀ AI?
Trong kho tàng minh triết Tây phương, ta đọc được câu chuyện thế này: Giửa cơn bạo bệnh thập tử nhất sanh, một người phụ nữ bị hôn mê dài ngày. Bà ta thấy mình bị đưa ra trước Thượng đế.
Một tiếng nói vang lên:
- Người là ai?
Người phụ nữ run sợ đáp:
- Thưa con là vợ của…
Tiếng nói ấy bỗng trở nên nghiêm nghị:
- Ta không hỏi ngươi là vợ của ai. Ta chỉ hỏi ngươi là ai mà thôi!
Người phụ nữ đáng thương vẫn chưa hiểu được ý nghĩa của câu hỏi, bà ta tiếp tục thưa:
- Con hành nghề giáo viên…
Nhưng tiếng nói lại biến thành gay gắt:
- Ta không hỏi ngươi làm nghề gì.Ta chỉ muốn biết ngươi là ai mà thôi!
Nghe đến đây, người phụ nữ liền thưa:
- Con là một tín đồ Hồi giáo..
Tiếng nói tỏ ra gay gắt hơn:
- Ta chẳng hỏi ngươi có đạo hay là không. Ta chỉ hỏi ngươi là ai mà thôi!
Như một nỗ lực cuối cùng, người phụ nữ nhẫn nại:
- Con luôn giúp đỡ những người nghèo thiếu…
- Ta không cần biết người vị tha hay bác ái như thế nào, mà ta chỉ hỏi ngươi là ai!
Trong giây phút tỉnh ngộ, người phụ nữ biết được ý nghĩa cao cả của câu hỏi.
Qua cơn bạo bệnh, bà ta quyết tâm sống để tự trả lời cho bằng được câu hỏi ấy. Vì đó là câu hỏi cần giải đáp nhất.
“CÁI CỦA TÔI” CHẲNG HỀ LIÊN QUAN
Sư Tinh Vân là người sáng lập Trung tâm Phật Quang Sơn, Đài Loan. Một cơ sở Phật giáo tầm cỡ thế giới vào những năm 1950, nay là chỗ tu học, nghiên cứu, chiêm bái, tịnh dưỡng và cả tham quan du lịch cho vô số Phật tử. Cuối đời ngài nhường chức vị tọa chủ cho một môn đồ, còn bàn thân bước rong khắp nơi để tùy duyên giáo hóa chúng sanh.
Một hôm có một nhà điêu khắc phát tâm tạo tượng sư Tinh Văn.
Khi thực hiện xong bức tượng bắng sáp, ông ta thỉnh sư sang xem, sư khen là nhà điêu khắc đã tạc khéo như thật.
Huỳnh Chí Trung nhận xét:
- Diện mạo thì rất giống, nhưng không sống dộng và toát ra thần thái dịu dàng của sư phụ.
Lâm Thanh Huyền bính:
- Giống..nhưng thiếu vẻ trí tuệ linh hoạt
Sư Tinh Vân mỉm cười, lắc đầu::
- Tượng sáp này và ta đâu có liên quan gì!
Đại Chúng liền bật cười
- Đúng là cái nhìn của bậc hiền giả.
Ngay cả bản thân chúng ta còn chưa liên quan gì đến chúng ta, tên tuồi và danh vọng cũng chẳng liên quan gì tớ mình, huống hồ một bức tượng được tạc bằng sáp ư? Nhưng, con người mê muội thì luôn luôn đồng hóa bản thân với bất kỳ sự vật nào ở bên ngoài, cho nên y thường tự chuốc lấy vô số khổ đau, trói buộc. Ngay cả những cái bên trong Ta cũng chỉ là thứ không có thật, nói chi tới cái bên ngoài.
VẪN LÀ CÂU HỎI: TÔI LÀ AI?
Trong Áo Nghiã Thư (Upanishads), một bộ luận thư nổi tiếng của Ấn Độ, có thuật một chuyện ngụ ngôn như sau:
Chàng thanh niên Svetketu về thăm gia đình với niềm tự hào lớn lao bởi vì chàng ta vừa đổ đầu kỳ thi tốt nghiệp, và người cha đã nhìn thấy Sveketu tiến vào gần ngạch cửa.
Người cha chặn lại:
- Con chớ nên vào nhà vội. Cha biết con đã thu nhập tất cả kiến thức trên thế gian này. Nhưng con có thể trả lời câu hỏi quan trọng nhất của kiếp người “TÔI LÀ AI?” hay không?
Svetketu thưa rằng:
- Thưa cha, đó không phải là chương trình học của con
Người cha bảo:
- Thế thi con hãy quay trở lại hỏi ngài viện trưởng câu hỏi ấy. Chừng nào con chưa trả lời được câu hỏi nầy, thì con chớ có quay về.
Người cha lật đật quay về bỏ mặc Svetketu đang bối rối, choáng váng “Cha ta nói rất đúng khi mà ta chưa biết mình là ai, thì những kiến thức màu mè mà ta có này sẽ dùng vào việc gì?”
Và anh ta quay trở lui, lập tức xin yết kiến ngài viện trưởng
- Cha con vừa nói rằng tất cả những gì mà nhà trường đã ban cho con đều tuyệt đối vô dụng, phù phiếm. Bây giờ con xin ngài dạy cho con biết “Con là ai?”.
Ngài viện trưởng ngẩm nghĩ rất lâu rồi nói:
- Cha con nói rất phải. Tích lũy tất cả kiến thức thế gian thì đương nhiên là một việc dễ dàng, nhưng để trở thành một người hiểu biết “Tôi là ai?” thì quả là một công việc vô cùng khó khăn, rất khó. Xưa nay hiếm kẻ thực hiện nổi, ta chỉ ngại anh không thể nhẫn nại để thực hiện công việc gian nan khổ nhọc ấy.
Svetketu cương quyết:
- Thưa ngài, dẫu khó khăn đến mấy đi nữa, thì con cũng ráng thực hiện. Nếu không thì con không thể bước vào nhà mình một cách đàng hoàng được.
Ngài viện trưởng miễn cưỡng bảo:
- Con hãy làm theo lời ta như thê này: hãy đem 100 con bò cái này đi vào rừng, và qua việc chăn thả, làm sao cho chúng sinh sôi để phát triển thở thành 1.000 con bê con. Hãy cứ an lòng ở trong rừng sâu hẻo lánh, nơi không một ai bén mảng, cho đến khi đủ số 1000 con, thì hãy trở về với thế giới loài người.
Như tuân theo một mệnh lệnh, Svetketu mang 100 con bò cái vào rừng sâu, nơi chưa hề lưu vết chân của cn người
Y chỉ biết chăm sóc đàn bò. Ăn với bò, ngủ với bò, chơi đùa với bò. Xung quanh y chỉ là một bầu không khí cô tịch và im lặng hoàn toàn.
Bao nhiêu tri thức, đạo lý nhiệm màu và uyên áo mà y được học hỏi trong nhà trường, bây giờ Svetketu dường như đã quên bẵng. Bởi vì loài bò thì dường như không bao giờ biết tới kinh điển, hoặc minh triết, đạo lý nhân sinh. Bò chỉ nhai cỏ, nhai đi nhai lại và thảng hoặc bò lại rống lên vài ba tiếng cho vui, chứ loài bò thì không hề băn khoăn thao thức bất cứ điều gì. Riết rồi Svetketu cũng quen dần.
Rất lâu, cho đến lúc nào đó, Svetketu quên mất bản thân mình. “Quên, quên, quên đã mang trái tim người!”
Hôm nọ, các sinh viên đã thấy từ xa 1000 con bò đang tụ tập đứng chung quanh trường học, và họ vào báo với ngài viện trưởng: “Svetketu đang trở về cùng 1000con bò”.
Quả thật như vậy, Svetketu đã trở về và đứng ở đó giống hệt như một con bò chìm lẫn trong 1000 con bò khác, im lặng.
Và Svetketu không cần nói lấy một lời.
Ánh mắt của Svetketu đã trở nên thuần khiết, nhu nhuyển và không ngừng tỏa sáng. Ngài viện trưởng kinh ngạc, chăm chăm nhìn Svetketu. Svetketu cũng dịu dàng nhìn ngài, không chờ đợi việc gì xảy ra cả.
Nhưng Svetketu vẫn đứng bất động, không nói gì, dường như Svetketu đã quên mất đường về nhà. Ngài viện trường khiến một sinh viên dẫn lối cho anh ta. Svetketu chỉ biết bước đi theo.
Người cha lại trông thấy con mình qua khung cửa sổ, ông ta kinh ngạc:
- Lạy trời, con trai tôi đã thực sự biết mình là ai rồi. Nhưng bản thân tôi cũng chưa biết Tôi là ai, làm sao bây giờ?. Thế là ông ta tất tả chạy ra cửa sau, vừa bảo vợ:
- Con chúng ta đã trở vế và biết mình là ai. Tôi phải trốn đi gấp. và sẽ không bao giờ quay về, nếu chừng nào tôi chưa biết rõ Tôi là ai.
KHÔNG AI CẢ
Descartes, triết gia Pháp lừng danh thế giới với tác phẩm phương pháp luận, đã để lại một danh ngôn thường được nhắc nhỡ trong các giảng đường đại học, hoặc được trích dẫn trên các trang sách của các nhà nghiên cứu, các tiểu luận của các sinh viên: “Je pense donc je suis” Nghĩa là “Tôi tư duy, như vậy tôi hiện hữu”. có một cái tôi thật sự và cũng có sự tư duy thật sự. Cái tôi và tư duy gắn bó keo sơn với nhau, bởi vì không thể tư duy nếu không có cái tôi. Cái tôi chính là cuống rún của vũ trụ là vậy.
Hơn thế nữa, không riêng gì Descartes mà toàn bộ nền triết học Tây phương, đều xây dựng trên một Cái Tôi thường hằng, bất biến. Điều này cũng dễ hiểu, nếu chúng ta nhận ra rằng, hết thảy hoạt cảnh trong vũ trụ này, hết thảy sản phẩm do tâm ý thức con người tạo ra đều bắt đầu từ một cái tôi năng động, thông minh và không chấp nhận sống theo cái đã cũ. Toàn bộ nền văn minh Hy Lạp la-mã đều đặt cơ sở trên cái tôi ấy. Do vậy, suốt 2000 năm văn minh, người Tây phương luôn luôn nương tựa vào một cái tôi có thật, bền vững, và như vậy, họ suy nghĩ, hành động và định hướng cuộc sống trên cái tôi mà họ hết lòng tin vào năng lực gần như tuyệt đối của nó. Hiểu ngược lại cái tôi cũng là đầu mối của tất cả tai họa thảm khốc xảy ra triền miên trên khắp hành tinh, và dường như không có ai có thể ngăn chận nổi.
Nhưng các bậc hiền giả của nền minh triết phương Đông thì dường như không đi theo lối ngõ kia, ngoại trừ Khổng Từ mà chúng ta được biết như là một nhà lập thuyết chính trị, nhà cải cách xã hội, hơn là một triết gia. Mặc dù ngài nỗ lực san địnhKinh Dịchmột tác phẩm triết học cổ đại có giá trị vượt bậc.
Với cái nhìn “Vạn vật đồng nhất thể”, Lão tử không chấp nhận một cái Tôi của mình đứng tách riêng ra khỏi Cái Tôi bát ngát bao la vô hạn của vũ trụ. Ngài chủ trương con người muốn hạnh phúc thì nên quên cái tôi của mình (Vọng ngã) để hòa nhập với cái tôi lớn lao hơn, cao rộng hơn, tạm gọi là “Thái Cực”, “Vạn Vật chi mẫu”, “Vô vị chân nhân”, “Hỗn Độn”, “Cốc Thần”…
Người Ấn Độ thì tiến xa hơn với sự góp sức của công phu thiền định như là một đặc chất của nên văn hóa tâm linh mà trên thế giới không có một xứ sở nào được như vậy- suốt 7 ngàn năm lịch sử, họ bỏ ra nhiều thiên niên kỷ để quan sát Cái Tôi theo nhiều góc độ, dạng thức khác nhau, cuối cùng họ tuyên bố: Cái Tôi là cái không thật có.
Cuộc sống con người chỉ là những chuỗi nghiệp chướng nối tiếp nhau mà không có một cái chủ thể gọi là Cái Tôi. Có hành động nhưng không có người tạo tác. Có tác nhân nhưng không có kẻ chịu quả báo. Có vô số diễn tiến của cuộc sống nhưng không có cái tôi, tương tự như chúng ta đi trên một máy bay gọi là Cuộc Sống, nhưng không có Phi Công hoặc không có Phi hành Đoàn. Đối với những người duy lý thì câu trả lời này có vẻ mâu thuẫn, nghịch lý không thể chấp nhận.
Khi một người tỏ ra nghi ngờ:
Nếu nói như vậy thì ai là kẻ thọ nhận tất cả những quả báo đã được gây ra trong quá khứ?
Lập tức các đạo sư trả lời:
- Dĩ nhiên, có một số mê lầm, vọng cháp đứng ra nhận chịu những nghiệp quả quá khứ, nhưng đó không phải là Cái Tôi thật. Thật ra, đó chỉ là một thứ Chấp Ngã mà chúng sanh tưởng nhầm rằng là Cái Tôi thật sự.
CON NGƯỜI VĨ ĐẠI NHẤT LÀ KHÔNG AI CẢ.
Một truyện trích từ kinh điển Nikaya của Phật giáo.
Sau khi Thái tử Tất Đạt Đa, có người hầu cận Xa Nặc hộ tống, nửa đêm vượt thành Ca-tỳ-la-vệ để xuất gia. Ngài liền đi từ rừng này đến rừng kia, từ vị đạo sư này đến đạo sư khác. Trước đây Ngài sống trong nhung lụa, nhưng bây giờ Ngài chỉ là một du tăng khất sĩ, bưng bình bát và đi bằng chân không.
Qua bờ sông, dọc theo các con đường lớn nhỏ, bàn chân Trần của Ngài luôn luôn in dấu trên cát hoặc hằn trên nền đất. va ngài cứ tiếp tục đi và bỏ lại phía sau lưng tất cả những dấu chân của mình.
Một lần nọ, một nhà chiêm tinh bỗng gặp Ngài, trong khi Ngài nghĩ mệt dưới bóng cây. Nhìn thấy dấu chân lạ trên bãi cát ướt, ông ta cực kỳ kinh dị, bở vì đây không phải là dấu chân của người bình thường. Đây là dấu chân của một bậc Chuyển Luân Thánh vương, tức là vị hoàng đế vĩ đại hiện đang cai quản toàn bộ thế giới Diêm-phù-đề này. Nhưng nhà chiêm tinh lại càng ngạc nhiên hơn khi một bậc Chuyển –luân-thánh-vương mà lại đi chân đất trên bãi cát nóng vào một buổi trưa oi bức thế này?
Thế là nhà chiêm tinh lần theo dấu chân ấy.
Ông ta thấy dưới tàng cây xum xuê, Thái tử Tất-Đạt-Đa dang nhắm mắt lim dim. Ông ta thưa rằng:
- Tôi đã trông thấy và nghiên cứu dấu chân Ngài. Theo sở học của tôi, đây là dấu chân của vị hoàng đế làm cho chánh pháp ngự trị ở thế gian, cai trị bốn châu thiên hạ, có đầy đủ 32 tướng tốt, được trang bị 7 thứ châu báu, và hiển hiện 4 đức, giàusang không một ai sánh kịp…thế mà hiện nay tôi thấy Ngài chỉ là một kẻ ăn mày không hơn kém!
Tại sao lại xảy ra nghịch lý này?
Vị du tăng khất sĩ mở mắt, mỉm cười dịu dàng bảo:
- Tôi đã được sanh ra là một vị Chuyển luân Thánh vương. Những dấu chân tướng mạo, đường nét…mà ông đã trông thấy, tất cả đều mang quá khứ của tôi. Chỉ đúng về quá khứ mà thôi! Nhưng không bao giờ đúng về tương lai, bở vì tôi đã vứt toàn bộ quá khứ và tương lai vào cái chưa biết.
Nhà chiêm tinh nói:
- Tôi muốn biết Ngài có phải là Chuyển luân Thánh vương trá hình không?
- Không!
- Khuôn mặt Ngài có vẻ bình thản thế! Ngài có phải là Thiên thần hóa hiện ra không?
- Không!
- Nếu không phải là Thiên thần, thì chắc hẳn Ngài thuộc về một thế giới tối cao của Con người?
Và Thái tử Tất-Đạt-đa cười mỉm:
- Không ! Ta là Không Ai Cả. Ta không thuộc bất kỳ hình dạng nào, bất kỳ tên tuổi nào!
Nhà chiêm tinh vô cùng bỡ ngỡ:
- Ngài muốn nói điều gì?
Thái tử Tất-Đạt-Đa nhìn ra mênh mông:
- Và con người cao thượng nhất là Không Ai Cả.
Thật vậy, chẳng riêng gì Thái tử Tất-Đạt-Đa, mà toàn thể chúng sanh tất cả mọi người, đều mang đặc chất tâm linh Không Ai Cả. Nhưng chỉ vì vô minh, vọng kiến mà chúng ta vẫn tưởng rằng, mình có một Cái Tôi làm chủ tế cho mọi sinh hoạt đời thường của mình.
Tạp Chí Văn Hóa Phật Giáo số 114 | NGUYỄN XUÂN CHIẾN
Như Lai - Bậc Ngôn Hành Hợp Nhất
Mỗi độ tháng Tư về, trong tâm thức của những người con Phật đều hiển hiện hình ảnh huy hoàng Phật đản sinh bước đi trên bảy đóa sen và nghe ra âm ba quen thuộc “Ta là bậc tối thượng, tôn quý ở đời” (Thiên thượng thiên hạ, duy ngã vi tôn).
Nói đến Như Lai, người đệ tử Phật thường khắc niệm mười ân đức Phật bảo cao thượng vô song (Nam-mô Như Lai: Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn).
Giữa hội chúng trời người, Như Lai là bậc Tối thượng không có người ngang hàng. “Một người, này các Tỷ-kheo, khi xuất hiện ở đời là xuất hiện một người, không hai, không có đồng bạn, không có so sánh, không có tương trợ, không có đối phần, không có người ngang hàng, không có ngang bằng, không có đặt ngang bằng, bậc Tối thượng giữa các loài hai chân. Một người ấy là ai? Chính là Như Lai, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác. Một người này, khi xuất hiện ở đời, là xuất hiện một người, không hai, không có đồng bạn, không có so sánh, không có tương trợ, không có đối phần, không có người ngang hàng, không có ngang bằng, không có đặt ngang bằng, bậc Tối thượng giữa các loài hai chân” (Kinh Tăng chi bộ, phẩm Một người, phần Như Lai).
Như Lai là bậc Tối thượng vì Ngài đã thành tựu tám đức mà trong các hội chúng trời người không ai có thể thành tựu tám đức này. “Tỳ-kheo nên biết! Từ trước đến nay Ta đi vào trong chúng Sát-lợi, chúng Bà-la-môn, chúng Trưởng giả, chúng Sa-môn, chúng Tứ thiên vương, chúng trời Ba mươi ba, chúng Ma vương, chúng Phạm thiên vương, cùng họ chào hỏi nói năng đàm luận, Ta đi một mình không bạn bè, cũng không ai ngang hàng, ở trong ấy tối tôn, cũng không người sánh bằng. Ta ít muốn biết đủ, ý không lầm loạn, thành tựu giới, thành tựu chánh định, thành tựu trí tuệ, thành tựu giải thoát, thành tựu đa văn, thành tựu tinh tấn. Bấy giờ, trong tám bộ chúng, Ta đi riêng một mình không bạn bè, vì bao chúng sanh làm tàng che lớn. Khi ấy tám bộ chúng không thể thấy đảnh, cũng không dám nhìn mặt, huống gì cùng luận nghị. Vì sao? Vì Ta cũng không thấy trong cõi Trời, cõi Người, trong chúng Ma hoặc Thiên ma, chúng Sa-môn, Bà-la-môn có ai có thể thành tựu tám pháp này, trừ Như Lai không kể” (Kinh Tăng nhất A-hàm, phẩm 42. Bát nạn).
Như Lai, bậc Thế Tôn, được tôn quý ở đời không chỉ vì Ngài xuất hiện là “sự xuất hiện của mắt lớn, là sự xuất hiệncủa đại quang, là sự xuất hiện của đại minh, là sự xuất hiện của sáu vô thượng, là sự chứng ngộ bốn vô ngại giải, là sự thông đạt của nhiều giới, là sự thông đạt của các giới sai biệt, là sự chứng ngộ của minh và giải thoát, là sự chứng ngộ quả Dự lưu, là sự chứng ngộ quả Nhất lai, là sự chứng ngộ quả Bất lai, là chứng ngộ quả A-la-hán (Kinh Tăng chi bộ), mà Ngài còn là bậc ngôn hành hợp nhất, nói sao thì làm vậy, làm sao thì nói vậy.
Kinh Trường bộ (số 19, kinh Đại điển tôn) ghi: “Thế Tôn nói gì thời làm vậy, làm gì thời nói vậy. Một vị nói gì thời làm vậy, làm gì thời nói vậy, thành tựu các pháp và tùy pháp như vậy, một vị đầy đủ đức tánh như vậy, chúng ta thật khó tìm thấy trong quá khứ cũng như trong hiện tại, trừ Thế Tôn”. Kinh Trường bộ (số 29, kinh Thanh tịnh) ghi: “Này Cunda, trong thời gian giữa đêm Như Lai chứng ngộ Vô thượng Chánh Đẳng Giác và đêm Như Lai nhập Vô dư y Niết-bàn giới, trong thời gian ấy, những gì Như Lai nói trong khi thuyết giảng, nói chuyện hay trình bày, tất cả là như vậy chớ không gì khác. Do vậy mới gọi là Như Lai. Này Cunda, Như Lai nói gì thời làm vậy, làm gì thời nói vậy; nói gì thời làm vậy, làm gì thời nói vậy nên được gọi là Như Lai”. Kinh Tăng chi bộ (chương IV Pháp, phẩm Uruvela, phần Thế giới) cũng ghi nhận tương tự: “Này các Tỳ-kheo, Như Lai nói gì thì làm vậy, làm gì thì nói vậy. Vì rằng nói gì thì làm vậy, làm gì thì nói vậy, nên được gọi là Như Lai”.
Như Lai được trời người tôn kính bằng công hạnh hết sức giản dị và chân thật, đó là “nói gì thì làm vậy, làm gì thì nói vậy”. Như Lai đã tu hành, giác ngộ giải thoát và nói ra kinh nghiệm quý báu về con đường diệt khổ của chính mình. Thật lạ lùng là điều tưởng chừng như đơn giản “nói gì thì làm vậy, làm gì thì nói vậy” mà “chúng ta thật khó tìm thấytrong quá khứ cũng như trong hiện tại, trừ Thế Tôn”.
Vậy nên chăng, hàng hậu thế học theo Đức Phật chúng ta khoan nói về Tam minh, Lục thông, Tứ vô sở úy, Thập vô ngại giải, … mà ta chỉ cần nhớ ghi và thực hành hạnh đức “nói gì thì làm vậy, làm gì thì nói vậy”. Từ đời sống tu hànhcho đến hoằng dương giáo hóa, phụng sự tha nhân, hàng đệ tử chúng ta chỉ cần có được một phần hay nhiều phần của “ngôn hành hợp nhất” như Đức Phật thôi cũng đã quý hóa lắm rồi.
Quảng Tánh
Ảnh Đẹp
MP3 Nghe Nhiều
Tin Mới
Tin Đọc Nhiều
Suy Niệm Lời Phật Dạy
Sududdasa.m sunipuna.m yatthakaamanipaatina.m
Citta.m rakkhetha medhaavii citta.m gutta.m sukhaavaha.m.
The mind is very hard to perceive,
extremely subtle, flits wherever it listeth.
Let the wise person guard it;
a guarded mind is conducive to happiness
Tâm tế vi, khó thấy,
Vun vút theo dục trần,
Người trí phòng hộ tâm,
Phòng tâm thì an lạc.
(PC 36)
Kẻ đam mê ái dục,
Say đắm theo lục trần,
Tuy mong cầu an lạc,
Sanh tử vẫn hoại thân.
(PC 341)
Chiến thắng gây thù hận,
Thất bại chuốc khổ đau,
Từ bỏ mọi thắng bại,
An tịnh liền theo sau
(PC 201)
Sududdasa.m sunipuna.m yatthakaamanipaatina.m
Citta.m rakkhetha medhaavii citta.m gutta.m sukhaavaha.m.
The mind is very hard to perceive,
extremely subtle, flits wherever it listeth.
Let the wise person guard it;
a guarded mind is conducive to happiness
Tâm tế vi, khó thấy,
Vun vút theo dục trần,
Người trí phòng hộ tâm,
Phòng tâm thì an lạc.
(PC 36)
Kẻ đam mê ái dục,
Say đắm theo lục trần,
Tuy mong cầu an lạc,
Sanh tử vẫn hoại thân.
(PC 341)
Chiến thắng gây thù hận,
Thất bại chuốc khổ đau,
Từ bỏ mọi thắng bại,
An tịnh liền theo sau
(PC 201)
Sududdasa.m sunipuna.m yatthakaamanipaatina.m
Citta.m rakkhetha medhaavii citta.m gutta.m sukhaavaha.m.
The mind is very hard to perceive,
extremely subtle, flits wherever it listeth.
Let the wise person guard it;
a guarded mind is conducive to happiness
Tâm tế vi, khó thấy,
Vun vút theo dục trần,
Người trí phòng hộ tâm,
Phòng tâm thì an lạc.
(PC 36)
Kẻ đam mê ái dục,
Say đắm theo lục trần,
Tuy mong cầu an lạc,
Sanh tử vẫn hoại thân.
(PC 341)
Chiến thắng gây thù hận,
Thất bại chuốc khổ đau,
Từ bỏ mọi thắng bại,
An tịnh liền theo sau
(PC 201)
Sududdasa.m sunipuna.m yatthakaamanipaatina.m
Citta.m rakkhetha medhaavii citta.m gutta.m sukhaavaha.m.
The mind is very hard to perceive,
extremely subtle, flits wherever it listeth.
Let the wise person guard it;
a guarded mind is conducive to happiness
Tâm tế vi, khó thấy,
Vun vút theo dục trần,
Người trí phòng hộ tâm,
Phòng tâm thì an lạc.
(PC 36)
Kẻ đam mê ái dục,
Say đắm theo lục trần,
Tuy mong cầu an lạc,
Sanh tử vẫn hoại thân.
(PC 341)
Chiến thắng gây thù hận,
Thất bại chuốc khổ đau,
Từ bỏ mọi thắng bại,
An tịnh liền theo sau
(PC 201)
Sududdasa.m sunipuna.m yatthakaamanipaatina.m
Citta.m rakkhetha medhaavii citta.m gutta.m sukhaavaha.m.
The mind is very hard to perceive,
extremely subtle, flits wherever it listeth.
Let the wise person guard it;
a guarded mind is conducive to happiness
Tâm tế vi, khó thấy,
Vun vút theo dục trần,
Người trí phòng hộ tâm,
Phòng tâm thì an lạc.
(PC 36)
Kẻ đam mê ái dục,
Say đắm theo lục trần,
Tuy mong cầu an lạc,
Sanh tử vẫn hoại thân.
(PC 341)
Chiến thắng gây thù hận,
Thất bại chuốc khổ đau,
Từ bỏ mọi thắng bại,
An tịnh liền theo sau
(PC 201)
Sududdasa.m sunipuna.m yatthakaamanipaatina.m
Citta.m rakkhetha medhaavii citta.m gutta.m sukhaavaha.m.
The mind is very hard to perceive,
extremely subtle, flits wherever it listeth.
Let the wise person guard it;
a guarded mind is conducive to happiness
Tâm tế vi, khó thấy,
Vun vút theo dục trần,
Người trí phòng hộ tâm,
Phòng tâm thì an lạc.
(PC 36)
Kẻ đam mê ái dục,
Say đắm theo lục trần,
Tuy mong cầu an lạc,
Sanh tử vẫn hoại thân.
(PC 341)
Chiến thắng gây thù hận,
Thất bại chuốc khổ đau,
Từ bỏ mọi thắng bại,
An tịnh liền theo sau
(PC 201)
Sududdasa.m sunipuna.m yatthakaamanipaatina.m
Citta.m rakkhetha medhaavii citta.m gutta.m sukhaavaha.m.
The mind is very hard to perceive,
extremely subtle, flits wherever it listeth.
Let the wise person guard it;
a guarded mind is conducive to happiness
Tâm tế vi, khó thấy,
Vun vút theo dục trần,
Người trí phòng hộ tâm,
Phòng tâm thì an lạc.
(PC 36)
Kẻ đam mê ái dục,
Say đắm theo lục trần,
Tuy mong cầu an lạc,
Sanh tử vẫn hoại thân.
(PC 341)
Chiến thắng gây thù hận,
Thất bại chuốc khổ đau,
Từ bỏ mọi thắng bại,
An tịnh liền theo sau
(PC 201)
Sududdasa.m sunipuna.m yatthakaamanipaatina.m
Citta.m rakkhetha medhaavii citta.m gutta.m sukhaavaha.m.
The mind is very hard to perceive,
extremely subtle, flits wherever it listeth.
Let the wise person guard it;
a guarded mind is conducive to happiness
Tâm tế vi, khó thấy,
Vun vút theo dục trần,
Người trí phòng hộ tâm,
Phòng tâm thì an lạc.
(PC 36)
Kẻ đam mê ái dục,
Say đắm theo lục trần,
Tuy mong cầu an lạc,
Sanh tử vẫn hoại thân.
(PC 341)
Chiến thắng gây thù hận,
Thất bại chuốc khổ đau,
Từ bỏ mọi thắng bại,
An tịnh liền theo sau
(PC 201)
Sududdasa.m sunipuna.m yatthakaamanipaatina.m
Citta.m rakkhetha medhaavii citta.m gutta.m sukhaavaha.m.
The mind is very hard to perceive,
extremely subtle, flits wherever it listeth.
Let the wise person guard it;
a guarded mind is conducive to happiness
Tâm tế vi, khó thấy,
Vun vút theo dục trần,
Người trí phòng hộ tâm,
Phòng tâm thì an lạc.
(PC 36)
Kẻ đam mê ái dục,
Say đắm theo lục trần,
Tuy mong cầu an lạc,
Sanh tử vẫn hoại thân.
(PC 341)
Chiến thắng gây thù hận,
Thất bại chuốc khổ đau,
Từ bỏ mọi thắng bại,
An tịnh liền theo sau
(PC 201)
Sududdasa.m sunipuna.m yatthakaamanipaatina.m
Citta.m rakkhetha medhaavii citta.m gutta.m sukhaavaha.m.
The mind is very hard to perceive,
extremely subtle, flits wherever it listeth.
Let the wise person guard it;
a guarded mind is conducive to happiness
Tâm tế vi, khó thấy,
Vun vút theo dục trần,
Người trí phòng hộ tâm,
Phòng tâm thì an lạc.
(PC 36)
Kẻ đam mê ái dục,
Say đắm theo lục trần,
Tuy mong cầu an lạc,
Sanh tử vẫn hoại thân.
(PC 341)
Chiến thắng gây thù hận,
Thất bại chuốc khổ đau,
Từ bỏ mọi thắng bại,
An tịnh liền theo sau
(PC 201)
Sududdasa.m sunipuna.m yatthakaamanipaatina.m
Citta.m rakkhetha medhaavii citta.m gutta.m sukhaavaha.m.
The mind is very hard to perceive,
extremely subtle, flits wherever it listeth.
Let the wise person guard it;
a guarded mind is conducive to happiness
Tâm tế vi, khó thấy,
Vun vút theo dục trần,
Người trí phòng hộ tâm,
Phòng tâm thì an lạc.
(PC 36)
Kẻ đam mê ái dục,
Say đắm theo lục trần,
Tuy mong cầu an lạc,
Sanh tử vẫn hoại thân.
(PC 341)
Chiến thắng gây thù hận,
Thất bại chuốc khổ đau,
Từ bỏ mọi thắng bại,
An tịnh liền theo sau
(PC 201)
Sududdasa.m sunipuna.m yatthakaamanipaatina.m
Citta.m rakkhetha medhaavii citta.m gutta.m sukhaavaha.m.
The mind is very hard to perceive,
extremely subtle, flits wherever it listeth.
Let the wise person guard it;
a guarded mind is conducive to happiness
Tâm tế vi, khó thấy,
Vun vút theo dục trần,
Người trí phòng hộ tâm,
Phòng tâm thì an lạc.
(PC 36)
Kẻ đam mê ái dục,
Say đắm theo lục trần,
Tuy mong cầu an lạc,
Sanh tử vẫn hoại thân.
(PC 341)
Chiến thắng gây thù hận,
Thất bại chuốc khổ đau,
Từ bỏ mọi thắng bại,
An tịnh liền theo sau
(PC 201)
Sududdasa.m sunipuna.m yatthakaamanipaatina.m
Citta.m rakkhetha medhaavii citta.m gutta.m sukhaavaha.m.
The mind is very hard to perceive,
extremely subtle, flits wherever it listeth.
Let the wise person guard it;
a guarded mind is conducive to happiness
Tâm tế vi, khó thấy,
Vun vút theo dục trần,
Người trí phòng hộ tâm,
Phòng tâm thì an lạc.
(PC 36)
Kẻ đam mê ái dục,
Say đắm theo lục trần,
Tuy mong cầu an lạc,
Sanh tử vẫn hoại thân.
(PC 341)
Chiến thắng gây thù hận,
Thất bại chuốc khổ đau,
Từ bỏ mọi thắng bại,
An tịnh liền theo sau
(PC 201)
Sududdasa.m sunipuna.m yatthakaamanipaatina.m
Citta.m rakkhetha medhaavii citta.m gutta.m sukhaavaha.m.
The mind is very hard to perceive,
extremely subtle, flits wherever it listeth.
Let the wise person guard it;
a guarded mind is conducive to happiness
Tâm tế vi, khó thấy,
Vun vút theo dục trần,
Người trí phòng hộ tâm,
Phòng tâm thì an lạc.
(PC 36)
Kẻ đam mê ái dục,
Say đắm theo lục trần,
Tuy mong cầu an lạc,
Sanh tử vẫn hoại thân.
(PC 341)
Chiến thắng gây thù hận,
Thất bại chuốc khổ đau,
Từ bỏ mọi thắng bại,
An tịnh liền theo sau
(PC 201)
Sududdasa.m sunipuna.m yatthakaamanipaatina.m
Citta.m rakkhetha medhaavii citta.m gutta.m sukhaavaha.m.
The mind is very hard to perceive,
extremely subtle, flits wherever it listeth.
Let the wise person guard it;
a guarded mind is conducive to happiness
Tâm tế vi, khó thấy,
Vun vút theo dục trần,
Người trí phòng hộ tâm,
Phòng tâm thì an lạc.
(PC 36)
Kẻ đam mê ái dục,
Say đắm theo lục trần,
Tuy mong cầu an lạc,
Sanh tử vẫn hoại thân.
(PC 341)
Chiến thắng gây thù hận,
Thất bại chuốc khổ đau,
Từ bỏ mọi thắng bại,
An tịnh liền theo sau
(PC 201)
Sududdasa.m sunipuna.m yatthakaamanipaatina.m
Citta.m rakkhetha medhaavii citta.m gutta.m sukhaavaha.m.
The mind is very hard to perceive,
extremely subtle, flits wherever it listeth.
Let the wise person guard it;
a guarded mind is conducive to happiness
Tâm tế vi, khó thấy,
Vun vút theo dục trần,
Người trí phòng hộ tâm,
Phòng tâm thì an lạc.
(PC 36)
Kẻ đam mê ái dục,
Say đắm theo lục trần,
Tuy mong cầu an lạc,
Sanh tử vẫn hoại thân.
(PC 341)
Chiến thắng gây thù hận,
Thất bại chuốc khổ đau,
Từ bỏ mọi thắng bại,
An tịnh liền theo sau
(PC 201)